10:48 15/11/2013

Doanh nghiệp logistics Việt khó vươn ra thị trường thế giới

Song Hà

Việt Nam có gần 1.200 doanh nghiệp logicstic, nhiều hơn Singapore và Thái Lan nhưng có đến 80% có vốn đăng ký chỉ từ 1 – 1,5 tỷ đồng

Hiện cả nước chỉ có 6 trung tâm logistics tập trung tại một số tỉnh, thành phố lớn.<br>
Hiện cả nước chỉ có 6 trung tâm logistics tập trung tại một số tỉnh, thành phố lớn.<br>
Thống kê cho thấy, ngành logistics Việt Nam vẫn đang có những giá trị khá khiêm tốn so với các nước phát triển, song tiềm năng khai thác và thu lợi từ ngành dịch vụ quan trọng này lại không hề nhỏ.

Với hơn 3.260 km đường bờ biển và khoảng 4.639 km đường biên giới đất liền với 3 nước Trung Quốc, Lào và Camphuchia, Việt Nam nằm trong vùng chiến lược của Đông Nam Á - khu vực phát triển năng động với 3 mặt giáp biển, có nhiều cảng nước sâu nên Việt Nam là đầu mối giao lưu thuận lợi với các nước trong và ngoài khu vực.

Nhiều nhưng yếu

Từ năm 2007, các nhà đầu tư đã bắt đầu xây dựng các trung tâm logistics tại Việt Nam, một số trung tâm đã đi vào hoạt động và phần nào góp phần làm thay đổi bộ mặt ngành logistics Việt Nam, dù những trung tâm này vẫn còn trong giai đoạn hoạt động sơ khai và chưa hiệu quả. Đến năm 2012, cả nước có khoảng 6 trung tâm logistics là trung tâm logistics Cái Lân – VOSA (Quảng Ninh), Trung tâm  Green - Đình Vũ (Hải Phòng), trung tâm Geodis Wilson Cát Lái (Tp.HCM), trung tâm tiếp vận Schenker Gemadept, trung tâm Gemadept Sóng Thần và trung tâm  kho vận đa năng DAMCO (Bình Dương). Ngoài ra còn có một số trung tâm đang được xây dựng mới hoặc cấp phép đầu tư, cấp đất như Kerry Hưng Yên, Kerry Đà Nẵng, trung tâm Kim Thành Lào Cai…

Đáng chú ý có 3/6 trung tâm logistics đặt tại Bình Dương, 3 trung tâm còn lại nằm ở Hải Phòng, Quảng Ninh và Tp.HCM.

Còn nếu phân loại theo tiêu chí hạng 1 (cấp quốc gia) và hạng 2 (cấp vùng) thì đến 2012, toàn quốc chỉ có 1 trung tâm logistics đủ tiêu chí xếp hạng 2 là trung tâm Geodis Wilson Cát Lái, 5 trung tâm còn lại chưa đủ điều kiện xếp hạng vì có diện tích dưới 10ha.

Bên cạnh các trung tâm logistics mới hình thành và phát triển, một số loại hình khác cũng thực hiện cung cấp dịch vụ logistics như các trung tâm kho vận, các ICD (cảng cạn)…

Theo Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS), số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dịch vụ logistics đang tăng nhanh, ước từ khoảng 700 doanh nghiệp năm 2007 lên gần 1.200 doanh nghiệp năm 2012, tương đương với các nước trong khu vực như Thái Lan, Singrpore, Indonesia…Song về tỷ trọng thì các doanh nghiệp logistics năm 2007 chỉ chiếm khoảng 7,2% trong tổng số doanh nghiệp vận tải, kho bãi và 0,4% tổng doanh nghiệp cả nước. Đến 2012, số doanh nghiệp này chỉ chiếm 0,2% tổng doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp logistics có thể chia làm 3 nhóm, gồm công ty đa quốc gia, công ty liên doanh nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước bao gồm cả nhà nước và tư nhân.

Viện nghiên cứu Nomura Nhật Bản, cho biết các doanh nghiệp logistics trong nước chỉ đáp ứng được ¼ nhu cầu thị trường. Điều này là do thực chất đến năm 2012 chỉ có 10% doanh nghiệp hoạt động trong ngành giao nhận kho vận là thực sự cung cấp dịch vụ logistics. Bên cạnh đó, gần như không có nhà cung cấp nào cung cấp được dịch vụ vận chuyển xuyên suốt trên toàn lãnh thổ Việt Nam kết nối với thị trường quốc tế với chi phí cạnh tranh, mà phải qua các nhà cung cấp dịch vụ của từng chặng. Trong khi đó, với tính chuyên nghiệp và mạng lưới rộng khắp, hơn 70% thị phần trong nước đã rơi vào tay các doanh nghiệp nước ngoài và liên doanh.

Theo TS Mai Xuân Thiệu, Viện trưởng Viện Logistics, mặc dù Việt Nam có từ 1.000 - 1.200 doanh nghiệp logicstics, nhiều hơn Singapore và Thái Lan nhưng có đến 80% doanh nghiệp có vốn đăng ký chỉ từ 1 - 1,5 tỷ đồng. Ngay cả số doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá từng bộ phận đã hình thành các công ty cổ phần nhưng vốn cũng chỉ khoảng 5 tỷ đồng.

Với quy mô vốn này, khả năng chen chân vào các thị trường logistics thế giới là rất nhỏ, bởi đơn cử muốn ký vận đơn vào Mỹ, doanh nghiệp phải ký quỹ 150.000 USD.

Hàng loạt trung tâm logistics mới sẽ ra đời

Theo định hướng và mục tiêu phát triển các lĩnh vực dịch vụ và các ngành thương mại cả nước giai đoạn 2011 – 2020 và đến năm 2030 thì dịch vụ logistics được xác định là lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế cần phát triển mạnh, là ngành dịch vụ “cơ sở hạ tầng” cần tập trung phát triển có trọng điểm. Dịch vụ logistics được coi là yếu tố then chốt thúc đẩy phát triển hệ thống phân phối các ngành dịch vụ khác, lưu thông hàng hoá trọng nước và xuất nhập khẩu.

Quyết định  3098/2011 của Bộ trưởng Bộ Công Thương cũng đã phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển thương mại Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020, định hướng đến 2030 đã nêu rõ “tốc độ tăng trưởng thị trường logistics đạt từ 20 – 25%/năm, tổng giá trị thị trường logistics dự báo chiếm 10% GDP vào năm 2020, tỷ lệ thuê ngoài logistics đến năm 2020 là 40%”.

Trong chiến lược cũng định hướng phát triển các loại hình dịch vụ hỗ trợ vận tải biển, logistics và dịch vụ vận tải đa phương tiện, đặc biệt tại các nhóm cảng phía Bắc, nhóm cảng Tp.HCM – Đồng Nai – Bà Rịa Vũng Tàu và nhóm cảng biển Đồng bằng Sông Cửu Long.

Tuy nhiên, ngành logistics Việt Nam lại có khá nhiều tiềm năng thuận lợi, trong đó phải kể đến tốc độ tăng trưởng cao, từ 20 -25% nên dễ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.

Sự phát triển của các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp…tạo nguồn cung hàng hoá lớn, từ đó làm tăng nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics đồng bộ, đặc biệt là trong lưu thông, phân phối hàng hoá cho cả sản xuất và tiêu dùng. Cùng với đó là kim ngạch xuất nhập khẩu có tốc độ tăng trưởng cao với giá trị khoảng 200 tỷ USD/năm trong 10 năm tới. Trong đó 90% hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển với khoảng 500 – 600 triệu tấn/năm vào năm 2015 và đến 1.100 tấn vào năm 2020.

Ngoài ra, các yếu tố về thu nhập, mức sống, cơ sở hạ tầng, pháp luật về logistics… cũng ngày càng cải thiện đã và sẽ góp phần không nhỏ thúc đẩy logistics phát triển.

Theo quy hoạch phát triển mạng lưới logistic trong thời gian tới, tại miền Bắc sẽ hình thành 7 trung tâm logistics hạng 1 và hạng 2 tại địa bàn các vùng, tiểu vùng, vành đai và hành lang kinh tế, trong đó khu vực Hà Nội sẽ hình thành 2 trung tâm hạng 1 với quy mô 20 - 30ha, còn lại các hành lang kinh tế ven biển Đông Nam, Đông Bắc, vùng trung du miền núi…mỗi nơi có một trung tâm logistics hạng 2. Tại miền Trung - Tây Nguyên hình thành 6 trung tâm logistic, miền Nam 5 trung tâm logistics.

Theo TS. Hoàng Thọ Xuân (Bộ Công Thương), để chiến lược phát triển logistics đạt được mục tiêu đề ra, trong thời gian tới, Chính phủ, các bộ ngành cũng như các địa phương phải tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp, nhà đầu tư thông qua các cơ chế ưu đãi, chính sách thông thoáng, thuận lợi, trong đó phải sửa đổi một số quy định liên quan đến lĩnh vực logistic.