23:15 30/12/2008

4 lý do để sửa luật, cho vay theo lãi suất thỏa thuận

Hoàng Vũ

Hiệp hội Ngân hàng đưa ra 4 lý do và đề xuất sửa luật, cho phép tổ chức tín dụng áp lãi suất cho vay do các bên thoả thuận

Theo VNBA, nếu việc sửa cơ chế lãi suất  cho vay "chậm ngày nào sẽ gây ách tắc và sự cứng nhắc trong hoạt động ngân hàng, không đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của nền kinh tế" - Ảnh: Việt Tuấn.
Theo VNBA, nếu việc sửa cơ chế lãi suất cho vay "chậm ngày nào sẽ gây ách tắc và sự cứng nhắc trong hoạt động ngân hàng, không đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của nền kinh tế" - Ảnh: Việt Tuấn.
Hiệp hội Ngân hàng đưa ra 4 lý do và đề xuất sửa luật, cho phép các tổ chức tín dụng áp lãi suất cho vay do các bên thoả thuận.

Ngày 29/12, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) có Công văn số 484/HHNH gửi Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội và Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội về việc cho vay thoả thuận của các tổ chức tín dụng không áp dụng trần lãi suất.

Công văn này dẫn Điều 476 của Bộ luật Dân sự, quy định: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”.

Theo VNBA, mục tiêu chính của quy định này là nhằm ngăn chặn việc cho vay nặng lãi trong nền kinh tế, thường xảy ra trong quan hệ giữa dân với dân và để tạo ra căn cứ cho tòa án xét xử khi có tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, quy định trên trong thực tế vẫn được hiểu là áp dụng để xử lý lãi suất cho vay cho các tổ chức tín dụng, mặc dù hoạt động của tổ chức tín dụng được điều chỉnh bởi Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng.

Căn cứ vào quy định trên tại Bộ luật Dân sự, ngày 16/5/2008, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng VND; trong đó, định kỳ hàng tháng, Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng cũng thay đổi tương ứng.

4 lý do để điều chỉnh

VNBA phân tích rằng: “Trong năm 2008, lạm phát tăng cao, việc quy định như trên đã giúp cho Ngân hàng Nhà nước chặn đứng và kiểm soát cuộc chạy đua tăng lãi suất của các ngân hàng thương mại, từ đó đã không gây nên sự xáo trộn lớn trên thị trường tiền tệ, tín dụng.

Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, tốc độ lạm phát đã được kiểm soát, lãi suất ngân hàng đã giảm sâu, kinh tế bước vào giai đoạn suy giảm thì việc quy định như trên của Bộ luật Dân sự đã và đang nảy sinh một số bất cập trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng”.

Cụ thể, VNBA đưa ra những nhận định và cũng là lý do chính để đề xuất xem xét lại quy định trên của Bộ luật Dân sự.

Thứ nhất, việc khống chế trần lãi suất cho vay như thời gian qua là một biện pháp can thiệp hành chính không phù hợp với nền kinh tế thị trường, làm hạn chế sự chủ động và linh hoạt của các ngân hàng thương mại trong vấn đề huy động vốn và cho vay, vì lãi suất (giá cả) hình thành dựa trên quan hệ cung cầu vốn của thị trường.

Mức lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng được xác định trên cơ sở lãi suất tiền gửi, chi phí huy động vốn, chi phí cho vay, uy tín của khách hàng, mức độ rủi ro của từng khoản vay và yếu tố cạnh tranh trên thị trường.

Thứ hai, việc khống chế trần lãi suất cho vay tức là đánh đồng lãi suất của các loại hình tín dụng, làm cho các ngân hàng rất khó đa đạng hóa các sản phẩm dịch vụ, vì mỗi loại hình tín dụng có mức độ rủi ro khác nhau, chi phí khác nhau, lãi suất cho vay khác nhau, lãi suất tín dụng tiêu dùng và tín dụng bán lẻ khác với lãi suất cho vay doanh nghiệp và các loại hình tín dụng thông thường.

Mặt khác, chính sách lãi suất trần cứng nhắc cũng làm hạn chế sự phát triển của các dịch vụ tài chính mới của các ngân hàng như tín dụng bán lẻ, tín dụng tiêu dùng, đây là những sản phẩm tất yếu của ngân hàng hiện đại.

Thứ ba, để kiểm soát sự biến động bất thường của lãi suất trên thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước đã có các công cụ để kiểm soát như lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở và điều hành khối lượng tiền cung ứng mà không cần giải pháp hành chính cứng nhắc như điều 476 của Bộ luật Dân sự đã quy định.

Thứ tư, Nghị quyết số 23/2008/NQ-QH12 ngày 6/11/2008 của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ tư, trong đó có cho phép “Các tổ chức tín dụng điều hành lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của pháp luật và được phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với một số dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao”.

Để thực hiện nghị quyết trên của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những biện pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, trong đó đã cho phép “tổ chức tín dụng thực hiện việc cho vay theo lãi suất thỏa thuận...”.

Với những lập luận trên, VNBA nhấn mạnh: “Để thực hiện thành công các giải pháp kích cầu của Chính phủ, đã đến lúc cần thiết phải cho phép các ngân hàng thương mại thực hiện cho vay theo lãi suất thỏa thuận để góp phần thúc đẩy phát triển phong phú các loại hình dịch vụ, tín dụng, kích thích sản xuất và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước phát triển”.

Đề xuất 2 phương án sửa luật

Trong công văn nói trên, với những lý do đưa ra, VNBA cho rằng đây là thời điểm “rất cần giải pháp năng động, linh hoạt của Nhà nước đó là dỡ bỏ trần lãi suất, cởi trói cho hoạt động ngân hàng để các ngân hàng thương mại được thực hiện cho vay theo lãi suất thỏa thuận trong khuôn khổ của Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng đã quy định”.

Theo đó VNBA đề xuất sửa Điều 474 và 476 của Bộ luật Dân sự theo 2 phương án:

Phương án 1: Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích Điều 474 và Điều 476 Bộ luật Dân sự theo hướng “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố”, quy định này không điều chỉnh các quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng hoạt động theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng.

Phương án 2: Chỉnh sửa Điều 474 và Điều 476 của Bộ luật Dân sự theo hướng quy định này không áp dụng đối với các tổ chức tín dụng.

Và theo Hiệp hội Ngân hàng, việc điều chỉnh nên theo phương án 1 để đáp ứng kịp thời cho tình hình kinh tế hiện nay, vì “chậm ngày nào sẽ gây ách tắc và sự cứng nhắc trong hoạt động ngân hàng, không đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn suy thoái hiện nay”.