11:48 10/05/2022

VAFIE lần đầu công bố Báo cáo thường niên FDI tại Việt Nam

Anh Nhi - Đức Long

Báo cáo thường niên về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2021 do Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE) thực hiện với cách tiếp cận Báo cáo thường niên Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD) và Báo cáo thường niên FDI ASEAN của Ban Thư ký ASEAN và UNCTAD để đánh giá toàn diện kết quả thu hút, sử dụng vốn FDI cùng phân tích môi trường đầu tư gắn với công cuộc cải cách nền hành chính…

Theo GS. TSKH Nguyễn Mại, Chủ tịch VAFIE, kể từ khi Quốc hội ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (29/12/1987), khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã không ngừng phát triển, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế và nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới.

"NEM" NỔI LÊN THÀNH XU HƯỚNG ĐẦU TƯ MỚI

Mặc dù nền kinh tế thế giới và FDI toàn cầu cũng như kinh tế Việt Nam chịu tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, tuy nhiên, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và hoạt động của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vẫn đạt được kết quả đáng khích lệ.

Trong năm 2021, vốn đăng ký FDI đạt 31,15 tỷ USD, tăng 9,2%, vốn thực hiện đạt 19,74 tỷ USD, giảm nhẹ 1,2% so với năm 2020. Việt Nam là nước tiếp nhận nguồn vốn FDI lớn thứ 3 trong khu vực và là một trong số nước ASEAN vẫn duy trì được tăng trưởng dòng vốn FDI ổn định qua nhiều năm.

Đáng chú ý, đầu tư mới vẫn là loại hình đầu tư chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong 3 năm 2019-2021 (2019: 44%, 2020: 51,34% và 2021: 48,9%). Vốn đăng ký dự án cấp mới có xu hướng tăng từ 4,3 triệu USD/dự án năm 2019 lên 8,8 triệu USD/dự án năm 2021.

Số lượt điều chỉnh tăng vốn giảm từ 1.381 năm 2019 xuống 1.140 năm 2020 và 985 năm 2021 nhưng vốn điều chỉnh có xu hướng tăng cả về giá trị tuyệt đối lẫn tỷ trọng trong tổng vốn đăng ký của cả 3 năm.

 

Đến nay, khu vực FDI chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư xã hội, 55% tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Các doanh nghiệp FDI chiếm hơn 70% kim ngạch xuất khẩu, góp phần chuyển đổi cơ cấu hàng xuất khẩu từ nguyên liệu thô, Khoáng sản sang công nghiệp chế biến, chế tạo có giá trị gia tăng cao.

“Điều này chứng tỏ môi trường đầu tư và kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện, làm cho nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng vào sự thành công trong kinh doanh ở nước ta bằng cách điều chỉnh tăng vốn đầu tư để mở rộng kinh doanh và tăng lợi nhuận”, báo cáo nhấn mạnh.

Riêng về nguồn vốn góp vốn và mua cổ phần của nhà đầu tư ngoại, GS.TSKH Nguyễn Mại cho rằng từ năm 2011 đến nay, hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) trở thành hình thức quan trọng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chiếm tỷ trọng cao trong vốn FDI đăng ký và thực hiện.

Bất chấp đại dịch, M&A tại Việt Nam vẫn hoạt động sôi nổi. 362 giao dịch M&A đã được FiinGroup ghi nhận năm 2021 với tổng giá trị M&A đạt 12 tỷ USD, tăng 150% so với năm 2020, tương đương với kỷ lục 13,4 tỷ USD năm 2017. Giá trị giao dịch trung bình mỗi thương vụ tăng từ 23 triệu USD năm 2020 lên 39 triệu USD năm 2021.

Ngoài ra, theo Chủ tịch VAFIE, phương thức đầu tư nước ngoài không sử dụng vốn chủ sở hữu (NEM) hoặc hình thức đầu tư mới (NFI) dịch chuyển từ chuỗi cung ứng sản phẩm có giá trị gia tăng thấp sang chuỗi cung ứng sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn đang nổi lên với việc một số tập đoàn kinh tế đã chủ động tiếp cận và thực hiện NEM như Vinfast và Vsmart…

NEM cho phép các công ty đa quốc gia (TNCs) điều phối hoạt động chuỗi cung ứng sản phẩm, tạo cơ hội cho các nhà sản xuất và cung ứng trong nước tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, khoản vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài thường bao gồm việc cung cấp thương hiệu, quyền sở hữu trí tuệ, bí quyết kinh doanh…

“Vì vậy, NEM đang có xu hướng gia tăng vì đưa lại lợi ích to lớn cho doanh nghiệp nước tiếp nhận FDI”, GS.TSKH Nguyễn Mại nhấn mạnh.

SỚM BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH VỀ BỘ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ

Bên cạnh những đóng góp tích cực, TS. Nguyễn Anh Tuấn, Phó Chủ tịch VAFIEE, cho rằng việc thu hút và sử dụng vốn FDI vẫn còn những tồn tại, bất cập cần khắc phục.

Đó là số lượng dự án có công nghệ hiện đại, công nghệ nguồn từ Mỹ và châu Âu chỉ chiếm 5%, công nghệ trung bình chiếm 80% và công nghệ lạc hậu chiếm 15%. Số lượng doanh nghiệp FDI thành lập trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) tập trung trong ngành công nghệ thông tin, điện tử viễn thông… vẫn chưa được chú trọng. Hiệu quả kinh tế của nhiều doanh nghiệp FDI chưa tương xứng với quy mô vốn, năng lực và những ưu đãi được hưởng.

Ngoài ra, cơ cấu FDI theo vùng và địa phương còn mất cân đối dẫn tới tình trạng phát triển không đồng đều giữa các vùng và địa phương. Doanh nghiệp FDI thiếu liên kết, chưa có tác động lan tỏa tới doanh nghiệp trong nước khi Việt Nam vẫn nằm ở vị trí thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu, chủ yếu ở khâu lắp ráp cuối cùng của chuỗi với giá trị gia tăng thấp.

Đặc biệt, thể chế, luật pháp liên quan đến đầu tư nước ngoài chưa hoàn chỉnh, chồng chéo, thực thi không nghiêm minh nên một số nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng kẽ hở pháp luật để trục lợi, đầu tư “chui”, đầu tư “núp bóng” torg những ngành và lĩnh vực hạn chế FDI…

Vì vậy, để tiếp tục thu hút FDI trong bối cảnh hạn chế rủi ro từ cuộc chiến Nga- Ukraine, sự tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế thế giới hay rủi ro từ lạm phát… Việt Nam cần tập trung vào 3 giải pháp trọng tâm.

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, luật pháp có liên quan đến FDI; trong đó có chủ trương về việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu tại Việt Nam.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng FDI thông qua cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, rà soát hệ thống chính sách về đầu tư, hỗ trợ nhà đầu tư tháo gỡ khó khăn.

Thứ ba, nâng cao quản lý nhà nước về FDI từ xúc tiến, thẩm định, triển khai tới kiểm tra, giám sát.

“Trong đó, VAFIE kiến nghị Chính phủ sớm ban hành Quyết định về Bộ Tiêu chí đánh giá hiệu quả khu vực FDI, chỉ đạo các cơ quan Nhà nước từ trung ương đến địa phương thực hiện nghiêm chỉnh trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI”, ông Mại nhấn mạnh.