19:28 30/12/2019

Bộ trưởng Tài chính: Nợ công, bội chi đều giảm

Hà Vũ

Bội chi ngân sách nhà nước năm 2019 giảm từ mức 3,7% GDP theo dự toán xuống mức dưới 3,4% GDP, nợ công đến nay giảm còn 56,1% so với mức 63,7% cuối năm 2016

Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân giai đoạn 2016 – 2020 đạt 24,4% GDP - Ảnh: Quang Phúc
Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân giai đoạn 2016 – 2020 đạt 24,4% GDP - Ảnh: Quang Phúc

Bội chi ngân sách nhà nước năm 2019 giảm từ mức 3,7% GDP theo dự toán xuống mức dưới 3,4% GDP, nợ công đến nay giảm còn 56,1% so với mức 63,7% cuối năm 2016.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết kết quả trên tại hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa phương, chiều 30/12.

Cũng như nhiều vị bộ trưởng khác, Bộ trưởng Dũng khẳng định, kết quả đạt được về kinh tế, xã hội và ngân sách nhà nước năm 2019 là  toàn diện và tích cực. Đây là tiền đề quan trọng để tự tin hơn khi bước vào năm 2020, năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm và chiến lược 10 năm.

Đến thời điểm này ngành tài chính đã hoàn thành khá toàn diện các mục tiêu, chỉ tiêu đặt ra cho năm 2019, Bộ trưởng cho biết.

Cụ thể, kết quả thu chi ngân sách theo đánh giá của Bộ trưởng là rất tích cực. Thu ngân sách đến hôm nay, sau khi trừ hoàn thuế VAT, tăng thêm 24,7 nghìn tỷ, vượt trên 8%, tương đương khoảng 110 nghìn tỷ đồng so với dự toán. Trong đó, thu nội địa, thu từ dầu thô, xuất nhập khẩu đều vượt dự toán. Sơ bộ 63/63 địa phương hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự toán tổng thu nội địa, Bộ trưởng cho biết cụ thể hơn.

Kết quả tiếp theo được ông Dũng đề cập là thu ngân sách Trung ương vượt dự toán. Số vượt thu ròng năm 2019 cao hơn số vượt thu năm 2018.

Bộ trưởng đánh giá, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân giai đoạn 2016 – 2020 đạt 24,4% GDP, vượt kế hoạch là 23,5% GDP. Cơ cấu thu nội địa trong tổng thu tăng dần, năm 2019 là 82% và năm 2020 dự kiến đạt gần 84%. Thu dầu thô năm 2018 còn 3,6%, thu xuất nhập khẩu còn 14,2%, như vậy thu nội địa là chủ yếu. Trong tổng thu thì thu ngân sách Trung ương là 55%, ngân sách địa phương là 45%.

Người đứng đầu ngành tài chính cũng cho biết, quản lý chi ngân sách chặt chẽ trong phạm vi dự toán, tiếp tục cơ cấu lại chi ngân sách, tăng tỷ trọng dự toán chi đầu tư phát triển, giảm tỷ trọng dự toán chi thường xuyên, đồng thời kết hợp cơ cấu lại chi trong từng lĩnh vực gắn với đổi mới sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế và đổi mới khu vực sự nghiệp công.

Tổng chi đầu tư phát triển 5 năm 2016 – 2020 ước vượt mức kế hoạch đề ra là 2 triệu tỷ đồng, đạt khoảng 27 – 28% tổng chi (mục tiêu là 25 – 26%). Tỷ trọng chi thường xuyên không bao gồm chi cải cách tiền lương năm 2019 khoảng 60,35%, dự toán năm 2020 là 60,5% (mục tiêu năm 2020 là dưới 64%).

Bội chi ngân sách nhà nước năm 2019 giảm từ mức 3,7% GDP theo dự toán xuống mức dưới 3,4% GDP. Nợ công đến nay giảm còn 56,1% so với mức 63,7% cuối năm 2016, ông Dũng nhấn mạnh.

Với những kết quả nói trên, Bộ trưởng Dũng nhận định, khả năng cơ bản hoàn thành các mục tiêu tài chính ngân sách 5 năm, góp phần tích cực vào ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhiệm kỳ 2016 – 2020.

Kết quả tiếp theo được ông Dũng báo cáo là trong năm 2019, ngành tài chính tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nhất là trong lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc nhằm cải thiện môi trường đầu tư theo hướng công khai, minh bạch, giảm chi phí, phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Nhờ vậy, trong Báo cáo môi trường kinh doanh 2020 vừa được Ngân hàng Thế giới công bố thì Chỉ số về thuế của Việt Nam đã tăng 22 bậc.

Tuy nhiên, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cũng nhìn nhận những điểm hạn chế mà nếu khắc phục được thì kết quả còn tích cực hơn.

Đó là, mặc dù Chính phủ, Thủ tướng đã quyết liệt chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh giải ngân nguồn vốn đầu tư công, nhưng nhiều năm liền không đạt kế hoạch. Tỷ lệ giải ngân năm 2017 là 81,8%, năm 2018 là 75,82% và ước năm 2019 đạt 75% dự toán Quốc hội giao.

Việc giải ngân chậm là một nguyên nhân dẫn tới hiệu quả đầu tư công thấp, tình trạng đội vốn công trình/dự án, ảnh hưởng uy tín của Việt Nam với các chủ nợ, nhà tài trợ… Đồng thời, cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và kể cả thu ngân sách ở ở một số địa phương, Bộ trưởng nhìn nhận.

Hạn chế tiếp theo được ông Dũng nhấn mạnh là việc cơ cấu lại, đổi mới khu vực doanh nghiệp nhà nước còn rất chậm. Việc phân định trách nhiệm xử lý tài chính của một số doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ đã ảnh hưởng đến tiến độ trả nợ một số chủ nợ, ảnh hưởng đến hệ số tín nhiệm quốc gia.

Tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước cũng rất chậm. Trong năm 2019 có 9 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hoá, luỹ kế giai đoạn 2016 – 2019 có 168 doanh nghiệp được phê duyệt phương án cổ phần hoá, trong đó chỉ có 36/128 doanh nghiệp cổ phần hoá thuộc kế hoạch giai đoạn 2017 – 2020 (đạt 28% kế hoạch). 

Số tiền thu từ cổ phần hoá, thoái vốn năm 2019 thu về Quỹ đạt khoảng 14.000 tỷ đồng/ 50.000 tỷ đồng dự toán. Như vậy, số nộp ngân sách nhà nước năm nay chủ yếu nhờ số thu phát sinh các năm trước chuyển sang, Bộ trưởng phân tích.