Sự thật về “đào tạo chất lượng cao”
Trong làng giáo dục, những chuyện quảng cáo và phô trương thái quá về hình ảnh của mình đang xảy ra ngày càng nhiều
Trong làng giáo dục, những chuyện quảng cáo và phô trương thái quá về hình ảnh của mình đang xảy ra ngày càng nhiều.
Cũng chẳng hiếm trường đại học tự nhận là trường có “đẳng cấp” hoặc “đào tạo chất lượng cao”... Thế nhưng khi cơ quan chức năng thẩm tra, thì mơi phát hiện ra số lượng giáo sư, phó giáo sư và tiến sĩ mà trường đăng ký trong danh sách giảng viên cơ hữu chẳng hề tồn tại.
Tương tự với một vài trường đại học, cái gọi là đẳng cấp hay chất lượng cao thực ra chỉ là việc nhà trường “tân trang” hoặc “nâng cấp” một số phòng học theo hướng “máy lạnh hóa” chứ chẳng phải là nâng cao chất lượng chương trình đào tạo hay bồi bổ nguồn lực bằng một đội ngũ giảng viên có học vị và thực chất.
Cho tới lúc này, hệ quả mà nhiều người học và không ít người dạy luôn lo lắng phập phồng đang xảy ra: chất lượng đào tạo tại khá nhiều trường đại học, đặc biệt đối với một số trường đại học dân lập thành lập mới và kể cả đại học dân lập đã có bề dày hoạt động trong nhiều năm, không những không phát triển mà còn có phần “xuống cấp”.
Thật rõ ràng, mặc dù số trường đại học được thành lập mới trong thời gian qua chưa phải là ồ ạt (25 trường, trong đó có 8 trường dân lập), nhưng tỷ lệ tăng trưởng này vẫn cao hơn hẳn mức đào tạo giảng viên có trình độ.
Có giảng viên “ôm” một lúc đến 4 trường đại học, chấp nhận không về làm “cơ hữu” cho trường nào chỉ để tự do và “ăn” theo số tiết thỉnh giảng. Đây là tâm lý phổ biến trong giảng viên có uy tín của các trường đại học công lập khi xác định “cơ chế hai chân” mà không quá mạo hiểm đầu quân cho một trường đại học dân lập chưa có nền tảng.
Chính vì vậy, theo thống kê sơ bộ vào đầu năm 2007 thì các trường đại học dân lập trong cả nước có 1.664/5012 giảng viên là cơ hữu, tức vượt quá tỷ lệ tối thiểu bắt buộc 30% mà Bộ Giáo dục - Đào tạo yêu cầu; tuy nhiên nếu khảo sát kỹ thì chắc rằng không nhiều trong số giảng viên cơ hữu này có trình độ đáp ứng được các yêu cầu giảng dạy bậc đại học. Thậm chí có những trường đại học dân lập đã ra đời nhiều năm nhưng số giảng viên cơ hữu chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Tình hình “chạy sô” đã tạo ra hậu quả: sau một thời gian, nhiều giảng viên đã thú nhận không còn thời gian để tự nghiên cứu, thậm chí đến thời gian để bổ sung và hoàn thiện giáo án cũng không có; còn nếu có được chút thì giờ trống tiết thì lao vào... ngủ để bù lại sức.
Lẽ đương nhiên, phong cách giảng dạy như vậy không thể làm cho giảng viên mặn mà và lao lực thật sự với từng lớp học, khiến chất lượng giảng dạy sa sút.
Trong khi đó, chương trình đào tạo của ngay những trường đại học có quảng bá về “chất lượng cao” cũng không được điều chỉnh bao nhiêu. Một số trường chỉ thuần túy nâng cấp chương trình đào tạo của mình từ chương trình đào tạo khung của Bộ Giáo dục - Đào tạo; còn khá hơn là bổ sung, cập nhật một số nội dung đào tạo của nước ngoài.
Tuy nhiên, trường hợp thứ hai lại thường vướng phải “lỗi kỹ thuật”: do không có nhiều thời gian và kinh phí, cũng như phải cố gắng “trình làng” càng sớm càng tốt một cái gì đó mới mẻ và phù hợp với lời tự quảng bá về mình, việc bổ sung nội dung của trường nước ngoài vào chương trình đào tạo của một số trường trong nước đã không được nghiên cứu đủ công phu, thậm chí cứ “bê” nguyên si vào, khiến chương trình đào tạo trở thành một cái gì đó khập khiễng và khó coi, không dễ hấp thu đối với tư duy học tập của sinh viên.
Hiện nay, chỉ có một ít trường đại học có chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài là thật sự có hiệu quả, cập nhật thông tin và thu hút học viên, xứng đáng với “đồng tiền bát gạo” mà học viên bỏ ra.
Còn với đa số các trường đại học dân lập và kể cả đại học công lập, chương trình đào tạo vẫn là một cái gì đó vá víu, kể cả bất cập, thậm chí đi lệch hẳn khỏi quỹ đạo của chương trình đào tạo khung của Bộ Giáo dục - Đào tạo (chẳng hạn đối với những môn cơ bản như triết học, kinh tế chính trị...). Trong khi, kế hoạch nhập khẩu và biên soạn lại chương trình đào tạo của nước ngoài do Bộ Giáo dục - Đào tạo chủ trì vẫn triển khai rất chậm, hầu như chưa có tiến triển gì đáng kể.
Nhu cầu mở thêm 100 trường đại học đến năm 2010 để đáp ứng yêu cầu học tập của sinh viên là không thể phủ nhận.
Tuy nhiên, cứ với cách mở trường mà có dư luận đã cho rằng “trường đại học giống trường trung học phổ thông” như hiện nay, với các yếu tố chính là chương trình đào tạo, con người giảng dạy và cơ sở vật chất – kỹ thuật kém được đổi mới, chắc chắn sẽ gây ra hậu quả lệch pha giữa khâu giảng dạy và khâu tiếp thu, làm cho chất lượng đào tạo ngày càng giảm sút tương đối chứ đừng nói đến việc “vươn lên mặt bằng đào tạo quốc tế”.
Cũng chẳng hiếm trường đại học tự nhận là trường có “đẳng cấp” hoặc “đào tạo chất lượng cao”... Thế nhưng khi cơ quan chức năng thẩm tra, thì mơi phát hiện ra số lượng giáo sư, phó giáo sư và tiến sĩ mà trường đăng ký trong danh sách giảng viên cơ hữu chẳng hề tồn tại.
Tương tự với một vài trường đại học, cái gọi là đẳng cấp hay chất lượng cao thực ra chỉ là việc nhà trường “tân trang” hoặc “nâng cấp” một số phòng học theo hướng “máy lạnh hóa” chứ chẳng phải là nâng cao chất lượng chương trình đào tạo hay bồi bổ nguồn lực bằng một đội ngũ giảng viên có học vị và thực chất.
Cho tới lúc này, hệ quả mà nhiều người học và không ít người dạy luôn lo lắng phập phồng đang xảy ra: chất lượng đào tạo tại khá nhiều trường đại học, đặc biệt đối với một số trường đại học dân lập thành lập mới và kể cả đại học dân lập đã có bề dày hoạt động trong nhiều năm, không những không phát triển mà còn có phần “xuống cấp”.
Thật rõ ràng, mặc dù số trường đại học được thành lập mới trong thời gian qua chưa phải là ồ ạt (25 trường, trong đó có 8 trường dân lập), nhưng tỷ lệ tăng trưởng này vẫn cao hơn hẳn mức đào tạo giảng viên có trình độ.
Có giảng viên “ôm” một lúc đến 4 trường đại học, chấp nhận không về làm “cơ hữu” cho trường nào chỉ để tự do và “ăn” theo số tiết thỉnh giảng. Đây là tâm lý phổ biến trong giảng viên có uy tín của các trường đại học công lập khi xác định “cơ chế hai chân” mà không quá mạo hiểm đầu quân cho một trường đại học dân lập chưa có nền tảng.
Chính vì vậy, theo thống kê sơ bộ vào đầu năm 2007 thì các trường đại học dân lập trong cả nước có 1.664/5012 giảng viên là cơ hữu, tức vượt quá tỷ lệ tối thiểu bắt buộc 30% mà Bộ Giáo dục - Đào tạo yêu cầu; tuy nhiên nếu khảo sát kỹ thì chắc rằng không nhiều trong số giảng viên cơ hữu này có trình độ đáp ứng được các yêu cầu giảng dạy bậc đại học. Thậm chí có những trường đại học dân lập đã ra đời nhiều năm nhưng số giảng viên cơ hữu chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Tình hình “chạy sô” đã tạo ra hậu quả: sau một thời gian, nhiều giảng viên đã thú nhận không còn thời gian để tự nghiên cứu, thậm chí đến thời gian để bổ sung và hoàn thiện giáo án cũng không có; còn nếu có được chút thì giờ trống tiết thì lao vào... ngủ để bù lại sức.
Lẽ đương nhiên, phong cách giảng dạy như vậy không thể làm cho giảng viên mặn mà và lao lực thật sự với từng lớp học, khiến chất lượng giảng dạy sa sút.
Trong khi đó, chương trình đào tạo của ngay những trường đại học có quảng bá về “chất lượng cao” cũng không được điều chỉnh bao nhiêu. Một số trường chỉ thuần túy nâng cấp chương trình đào tạo của mình từ chương trình đào tạo khung của Bộ Giáo dục - Đào tạo; còn khá hơn là bổ sung, cập nhật một số nội dung đào tạo của nước ngoài.
Tuy nhiên, trường hợp thứ hai lại thường vướng phải “lỗi kỹ thuật”: do không có nhiều thời gian và kinh phí, cũng như phải cố gắng “trình làng” càng sớm càng tốt một cái gì đó mới mẻ và phù hợp với lời tự quảng bá về mình, việc bổ sung nội dung của trường nước ngoài vào chương trình đào tạo của một số trường trong nước đã không được nghiên cứu đủ công phu, thậm chí cứ “bê” nguyên si vào, khiến chương trình đào tạo trở thành một cái gì đó khập khiễng và khó coi, không dễ hấp thu đối với tư duy học tập của sinh viên.
Hiện nay, chỉ có một ít trường đại học có chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài là thật sự có hiệu quả, cập nhật thông tin và thu hút học viên, xứng đáng với “đồng tiền bát gạo” mà học viên bỏ ra.
Còn với đa số các trường đại học dân lập và kể cả đại học công lập, chương trình đào tạo vẫn là một cái gì đó vá víu, kể cả bất cập, thậm chí đi lệch hẳn khỏi quỹ đạo của chương trình đào tạo khung của Bộ Giáo dục - Đào tạo (chẳng hạn đối với những môn cơ bản như triết học, kinh tế chính trị...). Trong khi, kế hoạch nhập khẩu và biên soạn lại chương trình đào tạo của nước ngoài do Bộ Giáo dục - Đào tạo chủ trì vẫn triển khai rất chậm, hầu như chưa có tiến triển gì đáng kể.
Nhu cầu mở thêm 100 trường đại học đến năm 2010 để đáp ứng yêu cầu học tập của sinh viên là không thể phủ nhận.
Tuy nhiên, cứ với cách mở trường mà có dư luận đã cho rằng “trường đại học giống trường trung học phổ thông” như hiện nay, với các yếu tố chính là chương trình đào tạo, con người giảng dạy và cơ sở vật chất – kỹ thuật kém được đổi mới, chắc chắn sẽ gây ra hậu quả lệch pha giữa khâu giảng dạy và khâu tiếp thu, làm cho chất lượng đào tạo ngày càng giảm sút tương đối chứ đừng nói đến việc “vươn lên mặt bằng đào tạo quốc tế”.