“Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thực hiện tổng kết đánh giá kết quả phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế theo từng giai đoạn và gần đây nhất là đánh giá, tổng kết 30 năm phát triển. Trong thời gian tới, Bộ sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông để thông tin kết quả qua mỗi giai đoạn tổng kết. Trên cơ sở đánh giá đó nhằm hướng đến xây dựng khung pháp lý ngày càng được hoàn thiện hơn.
Có thể nói, từ năm 2022 đến nay, các chính sách, pháp luật có nhiều sự thay đổi và đặc biệt là sự ra đời của Luật Quy hoạch, việc phát triển các khu đảm bảo tính đồng bộ, kết nối từ quy hoạch đô thị, giao thông, hạ tầng… và các thiết chế cho người lao động.
Ví như khu công nghiệp muốn mở rộng phải giải trình rõ có phương án về thiết chế cho người lao động, nhà ở cho người lao động để làm cơ sở xem xét mở rộng. Cùng với đó, vấn đề xem xét về hiệu quả sử dụng đất được thay đổi và được quy định rõ tại Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế; quy mô của các khu phải gắn với liên kết ngành, quy mô sử dụng đất đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo…; phải có cơ chế chuyển đổi các mô hình sang mô hình khu công nghiệp sinh thái, chuyên sâu, mô hình khu công nghiệp tiên tiến nhằm tạo hệ sinh thái phát triển công nghiệp, đô thị, dịch vụ, logistics.
Trong thời gian tới, các vấn đề về giao đất, cho thuê đất, đất lấn biển; ưu đãi đầu tư… sẽ được xem xét tại các nội dung liên quan đến sửa đổi Luật Đất đai, Luật Đầu tư. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang tham mưu, báo cáo cấp có thẩm quyền nghiên cứu chính sách tổng thể về ưu đãi đầu tư đặt trong bối cảnh hiện nay là thuế tối thiểu toàn cầu, thuế cacbon, các loại thuế về môi trường, trong hàng loạt các điều kiện khi tiếp cận thị trường “khó tính”; cơ chế chính sách phát triển bền vững các mô hình khu, khuyến khích các khu công nghiệp hiện hữu chuyển thành khu công nghiệp sinh thái; cơ chế thu hút nhà đầu tư phát triển thiết chế cho người lao động như nhà ở, công trình dịch vụ kèm theo...
Đã đến lúc cần có luật về mô hình các khu, không chỉ là khu công nghiệp, khu kinh tế mà còn có các khu công nghệ cao; phải có luật để điều chỉnh và áp dụng thống nhất trong cả nước về cách tiếp cận, trình tự thủ tục, ưu đãi, đặc biệt là mô hình quản lý ở địa phương. Cùng với đó là đẩy mạnh công tác quy hoạch, bởi đây là nền tảng của sự phát triển bền vững và công tác thực thi phải tốt”.
“Bên cạnh những kết quả đạt được, nhiều “nút thắt” trong phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế cũng đang hiện hữu trong thực tế.
Một là, thể chế, chính sách về khu công nghiệp, khu kinh tế chưa đảm bảo tính ổn định, thống nhất, đồng bộ và chưa có sự đột phá để phát huy vai trò và đóng góp của các khu trong phát triển kinh tế - xã hội. Tính pháp lý về quy định khung đối với khu công nghiệp, khu kinh tế chưa cao. Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động khu công nghiệp, khu kinh tế chưa có sự thay đổi căn bản, mới dừng lại ở cấp Nghị định. Trong khi đó, hoạt động của khu công nghiệp, khu kinh tế liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như: quy hoạch, đầu tư, doanh nghiệp, đất đai, xây dựng, môi trường, nhà ở, lao động...
Hai là, chất lượng, hiệu quả quy hoạch phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế chưa đáp ứng yêu cầu trong khi công tác xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế cần phải có tầm nhìn tổng thể, dài hạn trong nền kinh tế; đặt trong mối tương quan với các ngành kinh tế khác, với vùng và với xã hội.
Tính đồng bộ, gắn kết giữa quy hoạch phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế với các quy hoạch: hạ tầng xã hội, nguồn nhân lực, sử dụng đất và đô thị chưa cao. Việc phát triển theo định hướng bền vững, hài hòa giữa công nghiệp, đô thị và dịch vụ, tạo liên kết, hợp tác, hình thành chuỗi giá trị giữa các doanh nghiệp trong và ngoài khu công nghiệp, khu kinh tế chưa được chú trọng đúng mức.
Ba là, loại hình phát triển của các khu công nghiệp, khu kinh tế chậm được đổi mới. Khu công nghiệp tại Việt Nam vẫn chủ yếu phát triển theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực với mục tiêu chính là tăng diện tích lấp đầy. Trong vài năm gần đây, một số loại hình khu công nghiệp sinh thái, khu công nghiệp chuyên ngành, khu công nghiệp phụ trợ đã bước đầu hình thành tại một số địa phương, song số lượng còn hạn chế. Khu kinh tế cửa khẩu chủ yếu là trao đổi hàng hóa, mua sắm phi thuế quan, chưa tương xứng với tiềm năng trao đổi thương mại giữa Việt Nam với các nước lân cận và khu vực. Khu kinh tế ven biển chưa xác định rõ các ngành then chốt cần tập trung phát triển, gắn với lợi thế của từng khu và khai thác hiệu quả kinh tế biển.
Bốn là, chất lượng, hiệu quả thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu kinh tế chưa đáp ứng yêu cầu phát triển theo chiều sâu; liên kết, hợp tác trong và giữa các khu với nhau, giữa khu công nghiệp, khu kinh tế với khu vực bên ngoài còn hạn chế.
Các địa phương và nhà đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp vẫn tập trung phát triển theo “chiều rộng”, thu hút mạnh nhà đầu tư thứ cấp; chưa thực sự chú trọng phát triển theo “chiều sâu” hướng tới cơ cấu ngành nghề có giá trị gia tăng cao, công nghệ hiện đại và bảo vệ môi trường.
Năm là, vấn đề phát triển bền vững và cân bằng về kinh tế, môi trường và xã hội trong phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế đã được đặt ra nhưng kết quả thực hiện khác nhau và không đồng đều giữa các địa phương. Nhà ở xã hội, các thiết chế văn hóa, thể thao, phúc lợi phục vụ người lao động chưa đáp ứng nhu cầu của người lao động...
Sáu là, hiệu quả sử dụng đất tại khu công nghiệp, khu kinh tế chưa cao. Tỷ suất thu hút đầu tư trung bình có gia tăng qua các thời kỳ nhưng vẫn tương đối thấp. Một số khu công nghiệp gặp khó khăn trong thu hút dự án đầu tư thứ cấp.
Bảy là, nguồn vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế còn thấp so với nhu cầu, bởi khả năng cân đối từ ngân sách trung ương để hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế có hạn; mức vốn phân bổ hàng năm cho các địa phương và việc huy động nguồn vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển còn hạn chế.
Tám là, tổ chức bộ máy cơ quan đầu mối quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp, khu kinh tế ở trung ương và địa phương chậm được kiện toàn, nâng cấp để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Tại nhiều địa phương đã hình thành hệ thống Ban quản lý các khu công nghiệp, khu kinh tế nhưng quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Ban quản lý chưa rõ ràng, ổn định, nhất quán, chưa được phân cấp đầy đủ và chưa đủ căn cứ pháp lý để triển khai thực hiện chủ trương cải cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa, tại chỗ” của Chính phủ”.
“Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó đoán định do những ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, của cuộc xung đột Nga – Ukraine, và hiện tại là Israel – Hamas, nhưng kinh tế Việt Nam 3 quý đầu năm tiếp tục được duy trì ổn định, tăng trưởng kinh tế có những chuyển biến tích cực, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo.
Tuy nhiên, quá trình phục hồi và phát triển kinh tế chưa đạt như kỳ vọng. Tăng trưởng kinh tế 9 tháng đầu năm chỉ đạt 4,24%, khiến cho mục tiêu tăng trưởng năm 2023 và cả giai đoạn 2021-2025 rất khó khăn. Điều này đòi hỏi các bộ, ngành, địa phương phải chung tay tháo gỡ những nút thắt, tìm ra những động lực mới để đẩy nhanh hơn quá trình phục hồi và phát triển kinh tế.
Một trong những giải pháp đó là tăng cường thúc đẩy phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế, cụm công nghiệp. Từ đó, thu hút các nguồn lực về công nghệ, nguồn vốn, nhân lực từ bên ngoài nhằm tạo ra những động lực tăng trưởng cho các ngành, lĩnh vực, địa phương, đồng thời là nơi thử nghiệm các thể chế, cơ chế, chính sách mới kỳ vọng tạo đột phá.
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, thông qua hoạt động kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước đã làm rõ hơn các bất cập, hạn chế của các cơ chế chính sách, từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm khai thông các nguồn lực cho phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế, cụm công nghiệp. Kiểm toán Nhà nước cũng sẽ tiếp tục cùng các địa phương, các bộ, ngành tìm cách tháo gỡ những “nút thắt”, thúc đẩy hơn nữa quá trình phục hồi và phát triển kinh tế”.
“Trong quá trình phát triển, tỉnh Bình Dương nhận thấy các cơ chế chính sách trong quản lý, phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp và các quy định pháp luật về đầu tư, đất đai, xây dựng… vẫn chưa được cập nhật, hoàn thiện một cách đồng bộ, ảnh hưởng đến quá trình quản lý, phát triển các khu, cụm công nghiệp, ảnh hưởng đến tâm lý của nhà đầu tư.
Về tính pháp lý, quy định khung đối với khu công nghiệp, cụm công nghiệp chỉ mới dừng lại ở cấp Nghị định.
Về việc chấp thuận chủ trương đầu tư và lựa chọn chủ đầu tư khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các nghị định chuyên ngành về cụm công nghiệp chưa thống nhất trong việc lựa chọn chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và chưa quy định rõ thời gian dừng tiếp nhận đề nghị làm chủ đầu tư.
Bên cạnh đó, theo quy định, các chuyên gia, người lao động nước ngoài được tạm trú ở cơ sở lưu trú tại khu công nghiệp. Việc này làm cho người lao động nước ngoài tạm trú tại các khu công nghiệp ngày càng nhiều dẫn đến việc quản lý hành chính về trật tự và an ninh chính trị có nhiều phức tạp.
Về việc phối hợp trong quản lý nhà nước đối với khu, cụm công nghiệp, hiện vẫn chưa có hướng dẫn chi tiết về việc phân cấp, ủy quyền trong việc thực hiện giải quyết các thủ tục hành chính.
Về phát triển mô hình mới, việc triển khai xây dựng nền kinh tế tuần hoàn gặp nhiều khó khăn, chưa có nhiều mô hình kinh tế tuần hoàn tiêu biểu, hiệu quả; chưa có chính sách, hướng dẫn, tiêu chí cũng như phương thức đánh giá việc thu hút đầu tư có chọn lọc hay việc di dời các doanh nghiệp ra khỏi khu dân cư vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp…
Những tồn tại, khó khăn này ảnh hưởng rất lớn đến việc thực thi, triển khai công tác quản lý, phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp tại địa phương. Đối với các quy định không rõ ràng về chấp thuận chủ trương và chấp thuận nhà đầu tư, nguồn gốc đất, xác định giá đất, nghĩa vụ tài chính… sẽ gây hậu quả pháp lý liên quan đến thất thoát ngân sách nhà nước. Đây là một trong những vấn đề mà cơ quan kiểm ra, thanh tra, kiểm toán, điều tra đều có quan điểm và cách áp dụng khác nhau và khác với địa phương trong quá trình điều hành.
Đối với các vướng mắc liên quan đến khung pháp lý, chính sách ưu đãi đầu tư và thúc đẩy các mô hình khu, cụm công nghiệp tiên tiến, hiện đại, tỉnh Bình Dương kiến nghị Trung ương nhanh chóng thể chế hóa các quy định quản lý, phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp để có giá trị pháp lý tương đương và tạo ra sự đồng bộ trong quá trình áp dụng pháp luật trên các lĩnh vực đầu tư, xây dựng, đất đai… nhằm tích cực tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi”.
“Qua kết quả kiểm toán cho thấy, một số khu công nghiệp, khu kinh tế gặp khó khăn trong thu hút dự án đầu tư thứ cấp tại phần đất đã xây dựng hạ tầng; một số địa phương chưa quyết liệt trong việc thu hồi diện tích đất chưa sử dụng hoặc dự án không thực hiện đúng cam kết, dẫn đến lãng phí nguồn lực đất đai.
Do đó, cần tạo dựng khung pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất về khu công nghiệp, khu kinh tế. Hiện nay, để quản lý các khu kinh tế chỉ có Nghị định của Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất, trong khi các chính sách ưu đãi đầu tư về thuế, về đầu tư, đất đai, công tác bảo vệ môi trường được quy định tại các luật chuyên ngành. Vì vậy, có thể xem xét ban hành luật chuyên ngành quy định về hoạt động của các khu công nghiệp, khu kinh tế.
Ngoài ra, quy hoạch và phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế phải bảo đảm nguyên tắc tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai, gắn với khả năng thu hút đầu tư, gắn với liên kết vùng, hình thành các vùng công nghiệp trọng điểm, bảo tồn hệ sinh thái, phát triển bền vững.
Chú trọng đầu tư nhiều hơn cho khâu quy hoạch do những sai sót, bất cập ngay từ khâu quy hoạch dẫn đến các hệ lụy rất lớn, ảnh hưởng đến hiệu quả phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế; xem xét quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế đồng bộ với quy hoạch tổng thể, đặc biệt là quy hoạch sử dụng đất.
Ưu đãi đầu tư phù hợp, đẩy mạnh thu hút đầu tư; trong đó các chính sách thúc đẩy sự phát triển của các loại hình khu công nghiệp, khu kinh tế mới; hỗ trợ các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn xây dựng, phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc đối tượng được ưu đãi có thể tiếp cận nguồn lực đất đai dễ dàng hơn và với chi phí thấp hơn. Cần đa dạng hóa, linh hoạt và sáng tạo trong ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư đối với các khu công nghiệp, khu kinh tế...”.
“Sau hơn 30 năm đổi mới, tăng trưởng về sản xuất công nghiệp của Việt Nam còn rất khiêm tốn, nền sản xuất vẫn rất nhỏ lẻ, manh mún. Chúng ta dường như chú trọng vào thu hút đầu tư nước ngoài, trải thảm đón doanh nghiệp ngoại mà chưa chú trọng có giải pháp căn cơ hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất trong nước hiện đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn nan giải. Thủ tục để doanh nghiệp sản xuất vào được các khu công nghiệp để đầu tư xây dựng còn rất phức tạp...
Các khu công nghiệp của Việt Nam khá nhiều nhưng phân bố rải rác. Đơn cử như một doanh nghiệp sản xuất phía Bắc phải nhập nguyên phụ liệu từ một doanh nghiệp tận trong Nam… mà không có được một mạng lưới các doanh nghiệp hỗ trợ sản xuất trong cùng khu vực. Chính việc sản xuất phân tán, không liên kết, “mạnh ai nấy chạy” đã làm chi phí giá thành sản phẩm bị đội lên cao, ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của sản phẩm nội địa. Doanh nghiệp Việt vốn chủ yếu là nhỏ và vừa, nếu không liên kết lại trở thành chuỗi giá trị, hỗ trợ lẫn nhau về sản phẩm, chuỗi cung ứng sẽ rất khó phát triển lớn mạnh.
Hiện nhiều quy hoạch khu công nghiệp, cụm công nghiệp không có chiến lược rõ ràng và ổn định có tầm nhìn xa. Do đó, Chính phủ cũng cần có quy hoạch cụ thể về các vùng sản xuất công nghiệp, dựa trên đặc trưng của từng vùng. Trong đó, dành riêng quỹ đất cho các ngành nghề riêng biệt và có chính sách hỗ trợ từng vùng, từng ngành sản xuất cụ thể. Cần tính toán để hỗ trợ các doanh nghiệp hình thành mạng lưới sản xuất trong chuỗi cung ứng, giúp doanh nghiệp giảm chi phí, sản xuất chuyên sâu, hiệu quả hơn. Ví dụ như tại các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, thì phải quy hoạch thế nào để các công ty Việt Nam trở thành nhà cung cấp “cấp 1” về nguyên liệu, phụ liệu trong ngành công nghiệp nhẹ và điện tử cho tập đoàn Sam Sung; hoặc khu kinh tế Vũng Áng có Fomosa thì nên thu hút vào cơ khí chế tạo…
Mặt khác, để tạo đà cho các doanh nghiệp phát triển từ nhỏ tới lớn, Chính phủ cần có chủ trương mỗi tỉnh, huyện, thậm chí mỗi khu công nghiệp dành ra một quỹ đất hỗ trợ cho những công ty khởi nghiệp sáng tạo, các cơ sở đào tạo nhân lực, có chính sách cho vay dài hạn và ưu đãi về tiền thuê đất với diện tích vừa phải để các doanh nghiệp nhỏ và vừa đủ sức thuê. Ngoài ra, cần thúc đẩy hiệp hội nghề nghiệp, làng nghề - liên kết để phát triển sản xuất có khả năng cung ứng số lượng để đáp ứng được những đơn hàng của các tập đoàn công ty lớn...”.
“Hiệp hội Bất động sản TP. Hồ Chí Minh nhận thấy, Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) chưa tiên lượng trường hợp “khu công nghiệp” được chuyển đổi thành “khu đô thị - dịch vụ” theo quy định tại Điều 13 Nghị định 35/2022/NĐ-CP cho phép “chuyển đổi khu công nghiệp sang phát triển khu đô thị - dịch vụ” quy định: “1. Các điều kiện chuyển đổi khu công nghiệp sang phát triển khu đô thị - dịch vụ bao gồm: Phù hợp với quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Khu công nghiệp nằm trong khu vực nội thành của đô thị loại đặc biệt, đô thị loại I trực thuộc Trung ương và các đô thị loại I trực thuộc tỉnh; thời gian hoạt động kể từ ngày khu công nghiệp được thành lập đến thời điểm xem xét chuyển đổi tối thiểu là 15 năm hoặc 1/2 thời hạn hoạt động của khu công nghiệp…”, mà trong “khu đô thị - dịch vụ” thường bao gồm khu nhà ở.
Trường hợp trong “khu công nghiệp” có “thiết chế công đoàn” bao gồm khu “nhà ở xã hội cho công nhân trong khu công nghiệp thuê” thì Hiệp hội đề nghị Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) bổ sung quy định “người thuê căn hộ này từ 5 năm trở lên được mua lại nhà ở này” khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép “chuyển đổi khu công nghiệp sang phát triển khu đô thị - dịch vụ” theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 của Chính phủ, mà khu “nhà ở xã hội cho công nhân trong khu công nghiệp” vẫn phù hợp quy hoạch, để công nhân, lao động đang thuê nhà yên tâm.
Do vậy, Hiệp hội đề nghị trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển đổi khu công nghiệp sang phát triển khu đô thị - dịch vụ, mà trong khu công nghiệp có khu nhà ở xã hội cho công nhân thuê vẫn phù hợp quy hoạch đô thị thì người thuê căn hộ này từ 5 năm trở lên được mua lại căn hộ đang thuê theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan”.
“Trong quý 3/2023, tại khu vực phía Bắc, tỷ lệ lấp đầy trung bình của các khu công nghiệp ở thị trường cấp 1 đạt 80,2%, tăng 0,4% điểm phần trăm theo năm. Thị trường tiếp tục ghi nhận các giao dịch lớn từ các khách thuê ngành sản xuất nhựa, dệt may, kính áp tròng tại nhiều tỉnh thành.
Tỷ lệ hấp thụ đất công nghiệp tại các thị trường cấp 1 đạt 251ha trong quý. Tính tổng cộng 9 tháng đầu năm, tỷ lệ hấp thụ đạt hơn 700ha, cao hơn 18% so với mức hấp thụ của cả năm 2022. Giá thuê đất công nghiệp tiếp tục tăng do nhu cầu khả quan. Tại quý 3 vừa qua, giá thuê trung bình cho thị trường cấp 1 ở miền Bắc đạt 131 USD/m2/kỳ hạn còn lại, tăng 2% theo quý và 12% theo năm.
Tại thị trường công nghiệp miền Nam, tỷ lệ lấp đầy tại các khu công nghiệp trung bình đạt 81,9%. Tỷ lệ hấp thụ đất đạt hơn 190 ha, tăng 5,9% so với quý trước, tính chung 9 tháng đầu năm 2023 đạt hơn 770 ha, gần bằng mức hấp thụ cả năm 2022. Về giá thuê, giá thuê đất công nghiệp trung bình tại các thị trường cấp 1 đạt 189 USD/m2/kỳ hạn còn lại, tiếp tục tăng nhẹ 1% so với quý trước và cao hơn 13% so với cùng kỳ năm ngoái. Thị trường ghi nhận các giao dịch lớn đến từ các doanh nghiệp Trung Quốc và Nhật Bản với đa dạng các ngành công nghiệp như cơ khí, hóa chất, nhựa, cao su, điện tử.
Trong hai năm tới, giá thuê đất công nghiệp dự kiến sẽ tăng ở ngưỡng 6-10%/năm tại khu vực phía Bắc và 4-8%/năm tại khu vực phía Nam. Nhu cầu khả quan tới từ nhiều nhóm ngành và nhiều quốc tịch thuê giúp thúc đẩy tăng giá thuê tại nhiều địa phương. Trong khi đó, giá thuê kho xưởng xây sẵn dự báo tăng nhẹ từ 2-4%/năm trong hai năm tới. Trong 9 tháng đầu năm 2023, các khách thuê tới từ Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Mỹ và Liên minh châu Âu là các nhà đầu tư tích cực tìm kiếm đất công nghiệp và kho xưởng tại thị trường Việt Nam; chiếm khoảng 70–80% số lượng hỏi thuê tới CBRE tại cả khu vực phía Nam và phía Bắc. Với việc Việt Nam nâng cấp quan hệ hợp tác lên mức chiến lược toàn diện với các đối tác lớn như Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc trong thời gian gần đây, dòng vốn đầu tư đến từ các quốc gia này dự kiến sẽ tiếp tục dẫn dắt nguồn cầu thị trường bất động sản công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
Thị trường bất động sản công nghiệp Việt Nam sẽ tiếp tục có nhiều chuyển biến trong thời gian tới. Ngày càng nhiều doanh nghiệp, khách thuê đưa các mục tiêu về phát triển bền vững vào các tiêu chí lựa chọn địa điểm phát triển nhà máy, thuê kho xưởng – đây sẽ là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của nguồn cung mới các công trình xanh trong tương lai”.
VnEconomy 30/10/2023 16:00
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 44-2023 phát hành ngày 30-10-2023. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam