Chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero - Ảnh 1

Chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero - Ảnh 2

“Theo Chiến lược quốc gia biến đổi khí hậu, đến năm 2030, phát thải từ lĩnh vực năng lượng cần giảm 32,6% so với kịch bản phát triển thông thường với lượng phát thải không vượt quá 457 triệu tấn CO2 tương đương (CO2tđ) và đến năm 2050, giảm 91,6% với lượng phát thải không vượt quá 101 triệu tấn CO2tđ.

Trong năm 2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiến hành giám sát chuyên đề về việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016 – 2021 nhằm đánh giá, làm rõ những kết quả đạt được, hạn chế, bất cập, nguyên nhân, trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng thời gian qua.

Trên cơ sở đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 937/NQ-UBTVQH15 ngày 13/12/2023 về giám sát chuyên đề  việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng giai đoạn 2016 – 2021. Trong đó, đã đề ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ, cần thực hiện xong trước cuối năm 2025 và trong trung và dài hạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đặc biệt là có những yêu cầu cụ thể đối với việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển điện lực nói chung, như: sửa đổi Luật Điện lực, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả,...; về chiến lược, quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia và các quy hoạch, kế hoạch liên quan; về cơ chế, chính sách về thị trường năng lượng; giá điện, than, khí và xăng dầu; đầu tư phát triển các phân ngành năng lượng; về việc bảo đảm tính khả thi, hiệu quả đầu tư và nguồn vốn thực hiện các dự án năng lượng; về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.

Song chuyển đổi năng lượng là quá trình lâu dài, do đó cần sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị, đặc biệt là các doanh nghiệp.

Để chuyển đổi năng lượng hiệu quả, 3 vấn đề được đặt ra.

Thứ nhất, cần tiếp tục đưa ra các chính sách và sửa đổi một số luật cho phù hợp với thực tế nhằm thu hút các nguồn lực để phát triển năng lượng theo hướng đảm bảo an ninh năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo.

Thứ hai, quá trình chuyển đổi năng lượng sẽ đòi hỏi phải tăng đáng kể vốn đầu tư và giảm thiểu tác động đến chi phí điện năng. Để đáp ứng nhu cầu tài chính này, cần kết hợp các nguồn lực, bao gồm phần hỗ trợ tài chính quốc tế, vốn đầu tư tư nhân và nguồn ngân sách nhà nước.

Thứ ba, tiếp tục tăng cường xây dựng, thực hiện chính sách xã hội, chính sách chuyển đổi nghề, giúp đảm bảo người dân được hưởng lợi từ chuyển dịch năng lượng, không ảnh hưởng đến sinh kế”.

Chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero - Ảnh 3

“Việt Nam là một trong 4 nước tham gia Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP). Mục tiêu chủ yếu của JETP là hỗ trợ Việt Nam phi carbon hóa hệ thống điện, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, chuyển dịch năng lượng, hướng tới phát thải ròng bằng 0. Tham gia tuyên bố, các đối tác cam kết huy động số tiền ban đầu 15,5 tỷ USD trong vòng 3-5 năm tới để giải quyết nhu cầu chuyển đổi năng lượng công bằng của Việt Nam.

Tháng 12/2023, Việt Nam đã cùng các đối tác quốc tế công bố kế hoạch huy động nguồn lực thực hiện JETP, trong đó xác định các yêu cầu cơ hội để phát triển hệ thống điện cũng như đàm phán dừng đầu tư vào các nhà máy điện than mới.

Về kế hoạch tài chính cụ thể, phía đối tác quốc tế IPG sẽ hỗ trợ các khoản tài chính công có lãi suất thấp hơn các doanh nghiệp tư nhân và các ngân hàng thương mại quốc tế trong khối Liên minh Tài chính Glasgow vì phát thải ròng bằng 0 (GFANZ) là khoản tài chính tư nhân. Riêng với các dự án tham gia JETP, các ngân hàng trong khối GFANZ đã khẳng định đây là ưu tiên của Việt Nam nên phần vay thương mại sẽ có thêm mức bảo đảm. Do có tính bảo đảm, tính đi trước thời đại, hướng tới phát thải ròng bằng 0 nên điều kiện vay và lãi suất các dự án này cũng có ưu đãi riêng.

Trong kế hoạch huy động nguồn lực đã công bố tháng 12/2023, có 6 hạng mục và 6 nội dung ưu tiên được xác định. Từ khi công bố và huy động nguồn lực đến nay, có 3 nội dung chính đã thực hiện trong năm 2024.

Phía các đối tác quốc tế IPG đã cam kết hỗ trợ 7,7 tỷ trong kế hoạch hành động cũng sẵn sàng đầu tư thực hiện ngay 7 dự án. Phía các đối tác ngân hàng quốc tế như ngân hàng HSBC đã ký hàng loạt ghi nhớ với các tổ chức, với nguồn kinh phí lên đến 11,8 tỷ USD, cao hơn nguồn cam kết 7,7 tỷ USD của các đối tác quốc tế…

Tôi cho rằng nguồn vốn 7,7 tỷ USD cam kết hỗ trợ của đối tác quốc tế là rất quan trọng để tạo cơ chế, khơi thông nguồn lực để các doanh nghiệp cùng tham gia đầu tư vào lĩnh vực này.

JETP là vấn đề mới và Việt Nam là nước đi đầu. Tuy nhiên, đây là xu hướng chung toàn cầu trong chuyển đổi công bằng, trong đó trọng tâm là chuyển đổi năng lượng. Do đi tiên phong nên Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về quy trình, thủ tục, cơ chế, chính sách, cách làm... Tuy nhiên, điều này cũng mở ra nhiều cơ hội cho Việt Nam. Đặc biệt, nếu Việt Nam triển khai thực hiện tốt, sẽ khơi thông được nguồn lực tài chính cho chuyển đổi chung, cho phát triển đất nước”.

Chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero - Ảnh 4

“Trong giai đoạn 2021-2030 nhu cầu vốn đầu tư cho ngành điện khoảng 134,7 tỷ USD (13,4 tỷ USD/năm), nhưng thực hiện ba năm qua mới khoảng 30 tỷ USD (8,5 tỷ USD/năm), trong 6,5 năm còn lại phải đầu tư 105 tỷ USD (16,1 tỷ USD/năm). Đây là thách thức lớn.

Bên cạnh đó, hạ tầng hệ thống điện chưa đáp ứng được tích hợp tỷ lệ cao năng lượng tái tạo biến đổi (điện mặt trời và gió); vận hành khó khăn (thiếu nguồn linh hoạt, hệ thống lưu trữ năng lượng). Thiếu quy định pháp luật cho phát triển điện gió ngoài khơi; vướng mắc khi thỏa thuận hợp đồng mua bán điện với các dự án điện LNG. Thị trường điện chậm triển khai, chủ yếu vẫn là một người mua; giá điện chưa linh hoạt theo yếu tố đầu vào dù đã có Quyết định 24/2017/QĐ-TTg và Quyết định 05/2024/QĐ-TTg của Thủ tướng về điều hành linh hoạt giá điện nhưng quá trình thực hiện chưa làm được.

Ngoài ra, công nghệ, nhiên liệu xanh cho công nghiệp và giao thông vận tải còn ở giai đoạn thử nghiệm, chưa thị trường hóa, giá thành cao; công nghệ thu giữ, lưu trữ carbon còn nhiều thách thức.

Vì vậy, chúng ta cần sớm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để có cơ sở pháp lý cho triển khai các nguồn điện chạy nền thay thế điện than và nguồn năng lượng tái tạo, như: sớm ban hành cơ chế khuyến khích điện mặt trời mái nhà tự sản, tự tiêu với mục tiêu năm 2030 có 50% các tòa nhà công sở và 50% nhà dân sử dụng điện mặt trời mái nhà tự sản, tự tiêu; ban hành quy định về huy động các nguồn điện linh hoạt; khung giá mua bán điện với hệ thống pin lưu trữ (BESS) và thủy điện tích năng.

Về triển khai, các bộ, ngành hỗ trợ các địa phương thúc đẩy các dự án năng lượng tái tạo. Thí điểm sớm triển khai dự án điện gió ngoài khơi với cơ chế đặc thù; tăng cường nguồn điện nền (thay thế điện than); thực hiện nghiêm túc cơ chế điều chỉnh giá điện linh hoạt theo Quyết định 05 quy định về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân...”.

Chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero - Ảnh 5

“Nếu không có các giải pháp kịp thời thì đến năm 2050 chúng ta sẽ mất khoảng 13-14% GDP. Từ góc độ chuyên môn, tôi cho rằng chúng ta chi trả cho hiện tại để giảm chi phí trong tương lai và đây là việc cần phải làm.

Hiện nay, tỷ trọng các nguồn năng lượng hóa thạch, than, dầu, khí chiếm khoảng 77,8%; tỷ trọng năng lượng tái tạo chiếm khoảng 20-21%. Con số này cho thấy, nguồn cung năng lượng ở Việt Nam chủ yếu vẫn là năng lượng hóa thạch. Đây cũng chính là những nguồn phát thải gây hiệu ứng khí nhà kính, phát thải CO2.

Về cường độ sử dụng năng lượng sơ cấp, theo số liệu năm 2022, Việt Nam phải dùng khoảng 284 kg dầu quy đổi mới tạo ra 1.000 USD/GDP (theo thời giá năm 2021), đây là con số cao so với các nước trong khu vực. Trong khi đó, ở Singapore chỉ sử dụng khoảng 89 kg dầu để tạo ra 1.000 USD GDP; ở Indonesia là 186 kg và Thái Lan là 278 kg.

Khi cường độ năng lượng sử dụng nhiều chứng tỏ hiệu quả sử dụng năng lượng ở Việt Nam chưa tốt. Điều này dẫn đến vấn đề về phát thải. Theo tính toán về cường độ phát thải ở Việt Nam, để có được 1 USD trong năm 2021 (thời giá năm 2015) sẽ thải ra môi trường 0,76 kg CO2; trong khi đó con số này ở Singapore chỉ là 0,13 kg; Indonesia là 0,54 kg và Thái Lan là 0,61 kg.

Từ hiện trạng trên cho thấy, tỷ trọng năng lượng hóa thạch vẫn khá lớn và hiệu quả sử dụng năng lượng còn chưa tốt. Do đó, việc chuyển dịch năng lượng cần phải tập trung 2 vấn đề chính đó là tăng tỷ trọng sử dụng năng lượng tái tạo và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng để giảm phát thải khí nhà kính. Đây là một thách thức rất lớn với Việt Nam. Vì vậy, tôi cho rằng chúng ta cần phải có lộ trình cụ thể.

Liên quan đến tính bất ổn của năng lượng tái tạo, mặc dù là nguồn không mất tiền mua nhưng không ổn định và chúng ta phải chấp nhận thực tế này.

Để giải quyết vấn đề, tôi cho rằng cần phải tăng cường khả năng dự báo về nguồn để chủ động hơn trong phát triển điện tái tạo trong hệ thống năng lượng. Đây là vấn đề rất khó. Bên cạnh đó phải phát triển hệ thống lưới linh hoạt hơn. Tất nhiên trong điều kiện hiện nay, việc phát triển lưới sẽ mất nhiều thời gian, kinh phí… Do đó, yếu tố tích trữ năng lượng cần được đặt ra.

Nếu Việt Nam có thể tích trữ năng lượng trong giai đoạn năng lượng tái tạo bất ổn sẽ là hình thức góp phần hài hòa tần số lưới điện, san bằng phụ tải; đồng thời có thể phát triển được các hệ thống lưới điện phân tán, giảm tải việc đầu tư nguồn cho năng lượng tái tạo…

Muốn tạo sự bứt phá trong chuyển dịch năng lượng ở Việt Nam, theo tôi từ nay đến năm 2030 là thời khắc rất quan trọng để xây dựng, triển khai thực hiện các hoạt động có tính định hướng. Nếu không thực hiện sớm và nhanh thì đến năm 2050, chúng ta không thể cán đích NetZero.

Để đạt mục tiêu NetZero, chúng ta phải chuyển đổi cơ cấu năng lượng, tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, muốn tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo, chúng ta phải chấp nhận tính “đỏng đảnh” của nó”.

Chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero - Ảnh 6

“Khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) đã được sử dụng trên thế giới từ rất lâu, phổ biến tại các nước tiên tiến ở châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc. Thành phần trong LNG là khí CH4 chiếm tới 95%, được hóa lỏng bằng phương pháp đưa nhiệt độ âm sâu xuống âm 162OC. Dùng LNG làm nhiên liệu, lượng khí thải CO2 rất thấp. Có thể nói LNG là giải pháp nhiên liệu tốt nhất để giảm phát thải khí nhà kính.

Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) đã đầu tư kho cảng Thị Vải để chuyên nhập khẩu và bảo quản LNG. Đến nay, đã nhập khẩu được một chuyến tàu khí hóa lỏng LNG về nước, chủ yếu cung cấp bổ sung nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện ở trong khu vực thị xã Phú Mỹ, Bà Rịa - Vũng Tàu. Triển vọng trong tương lai nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu LNG tại Việt Nam rất lớn. Xu hướng LNG sẽ dùng để bổ sung cho các nhà máy điện khí bị thiếu hụt nhiên liệu; phục vụ nhu cầu nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện than chuyển đổi sang điện khí.

Để tạo ra thị trường khí LNG phục vụ các ngành công nghiệp, chúng tôi vẫn đang chờ các khung chính sách từ Nhà nước, để xuất khí LNG từ Tổng kho Thị Vải chuyển cho các nhà máy, cho các đơn vị kinh doanh ở trong hệ sinh thái của các doanh nghiệp tư nhân và các công ty nước ngoài.

Một triển vọng nữa cho LNG là cung cấp nhiên liệu cho ngành giao thông vận tải, khí LNG có thể thay thế cho diesel. Hiện tại ở TP.HCM và Hà Nội, đang áp dụng một số tuyến xe buýt sử dụng khí thiên nhiên nén (CNG). Loại khí này có hiệu suất năng lượng tốt lại ít xả khí nhà kính nên được xem là nhiên liệu sạch và được ứng dụng phổ biến trong ngành giao thông vận tải.

LNG cũng có triển vọng thay thế nhiên liệu diesel của các xe đầu kéo. Việt Nam hiện có khoảng 15-16 nghìn xe đầu kéo, tiêu thụ lượng diesel rất lớn nên lượng phát thải khí nhà kính cũng rất lớn. Mặc dù Việt Nam đã áp dụng đến tiêu chuẩn Euro 5 với các phương tiện giao thông, nhưng thực chất số lượng xe đáp ứng tiêu chuẩn này rất ít. Đối với ngành đường sắt, tất cả các đầu máy thế hệ cũ chưa đạt tiêu chuẩn Euro nào. Do đó, cần phải phát triển nhanh nhất thị trường LNG để giải quyết bài toán khí thải hàng ngày của các động cơ giao thông vận tải.

Cũng giống như lĩnh vực xe điện, việc xây dựng các trạm cung cấp LNG để phục vụ ngành giao thông vận tải đối mặt với nhiều khó khăn. Đầu tư một trạm khí LNG tốn tiền gấp nhiều lần so với đầu tư một trạm xăng, bởi bảo quản LNG cần kho lạnh nhiệt độ xuống dưới âm 162OC, nên chi phí đầu tư rất lớn. Chính phủ đã giao PVN đầu tư các kho để nhập khẩu LNG cho 3 miền. Hồng Hà Petro đang đề xuất, tham mưu cho Bộ Công Thương và Chính phủ về xây dựng chính sách thúc đẩy xây dựng các trạm nạp khí LNG trên toàn quốc”.

Chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero - Ảnh 7

“Việt Nam đã có các chính sách và tầm nhìn khá tiến bộ trong quá trình phát triển năng lượng. Điều này được thể hiện thông qua sự thay đổi trong các quy định cũng như cam kết mạnh mẽ tại Hội nghị COP 26 về chuyển đổi năng lượng.

 Việt Nam đang hướng tới trở thành nền kinh tế có thu nhập cao vào năm 2045 và nền kinh tế phát thải ròng bằng không vào năm 2050, vì vậy, cấu trúc của ngành năng lượng phải thay đổi để thực sự phù hợp với những tham vọng đó. Và đây là lĩnh vực mà chúng ta đang thấy có sự thay đổi trong hành động và tư duy chiến lược.

PwC đã thực hiện một nghiên cứu vào năm 2023 để xem xét quá trình thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng không của các nền kinh tế trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương (APAC). Kết quả cho thấy, Việt Nam là một trong ba nền kinh tế đứng đầu về giảm phát thải nhanh hơn mức cần thiết để đáp ứng các cam kết Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC).

Những kết quả đạt được không chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn. Có nhiều công việc đang được thực hiện trong suốt 5-6 năm qua, trong đó có thể kể đến việc thông qua một số chính sách nổi bật, như: Chiến lược tăng trưởng xanh, Chiến lược về biến đổi khí hậu và mới đây nhất, Chính phủ Việt Nam đã ban hành cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA). Đây là những bước đi rất tiến bộ.

Dù nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam đang ở giai đoạn khởi đầu, nhưng những nút thắt chủ chốt mà PwC tin rằng nên được giải quyết, chính là quy định và chính sách.

Các quốc gia, Thụy Điển, Đan Mạch và Vương quốc Anh đang dẫn đầu trong quá trình chuyển đổi năng lượng. Những nước này đã có một số cơ chế đáng chú ý liên quan đến an ninh năng lượng, cải thiện cường độ năng lượng, và xem xét định giá carbon. Đây là những chính sách tiến bộ, giúp đẩy mạnh quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo.

Bên cạnh đó, họ cũng xem xét các quy định phù hợp xung quanh việc chuyển đổi năng lượng. Một ví dụ có thể nhắc tới là sử dụng đấu thầu. Vì vậy, Việt Nam cần có các cuộc đấu thầu năng lượng tái tạo để tìm ra giá cả hợp lý. Hãy để thị trường quyết định giá nào mà họ có thể xây dựng cơ sở hạ tầng của mình thay vì phụ thuộc vào Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).

Một yếu tố khác cần xem xét là cải thiện khả năng tiếp cận tài chính. Nếu chúng ta xem xét các công nghệ như Hydrogen, công nghệ chuyển đổi, LNG, thì các dịch vụ tài chính truyền thống sẽ không thể đáp ứng nhu cầu phát triển các lĩnh vực này. Việt Nam cần nghĩ về cách giải quyết các vấn đề như phân loại xanh, cải thiện cách tiếp cận tài chính khí hậu trong tài chính chuyển đổi, bán trái phiếu xanh, thiết lập quỹ năng lượng tái tạo.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có thể triển khai các gói tài chính ưu đãi của mình một cách hợp lý, chẳng hạn như tài trợ cho lưới truyền tải. Ví dụ tại Ấn Độ, họ đã xây dựng một hành lang năng lượng xanh. Đây là một đường truyền tải năng lượng nhằm chuyển hướng dòng điện từ các điểm nóng năng lượng tái tạo lớn để cân bằng điện năng giữa các khu vực khác nhau và biến các hành lang này thành các trung tâm quản lý năng lượng.

Những dự án này được tài trợ thông qua các gói tài chính DFI, ADB và AIIB đang xem xét đầu tư vào các dự án tương tự. Đây cũng là một tác dụng tích cực mà DPPA và cơ chế khác có thể tạo ra”.

Chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero - Ảnh 8

“Trước hết, chúng ta có thể thấy rằng Chính phủ Việt Nam đã hành động rất tích cực trong 3 tháng qua khi đưa ra các chính sách và quyết định, đây thực sự là điều mà khu vực tư nhân đang mong đợi. Các chính sách, quyết định rõ ràng của Việt Nam đang là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Tiếp theo đó là về an ninh năng lượng. Chúng tôi đánh giá cao việc Chính phủ Việt Nam đã đặt an ninh năng lượng là vấn đề ưu tiên hàng đầu, tiếp sau là vấn đề năng lượng sạch, năng lượng bền vững cho nền kinh tế- xã hội. Gần đây nhất là Quyết định số  270/QĐ-TTg  của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Danh mục các chương trình, công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành năng lượng.

Khoảng 7 năm trước, chúng tôi đã thực hiện một cuộc khảo sát về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp và ưu tiên hàng đầu của họ là an ninh năng lượng. An ninh năng lượng nằm ở vị trí thứ 6 trong 10 vấn đề ưu tiên của các nhà đầu tư.

Mới đây, Chính phủ Việt Nam cũng đã ban hành Nghị định về Cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA), trong đó có những chính sách cho điện mặt trời, điện gió ngoài khơi. Đây là chính sách được các nhà đầu tư rất kỳ vọng.

Tôi cho rằng Việt Nam cần phải có một Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) mạnh và đủ tiềm lực trong tương lai, bởi EVN là bên đưa ra hợp đồng mua bán điện rất rõ ràng. Chúng ta sẽ không bảo đảm không có thêm khoản vay nào. Việc này sẽ có sự tham gia của khu vực tư nhân.

Chúng ta không thể đặt giá cho EVN để có những trợ giá giống như đã làm trong thời gian diễn ra dịch Covid-19, khi mọi người đều được giảm giá 10% tiền điện, nhưng không có hỗ trợ nào cho EVN, khiến doanh nghiệp này lỗ gần 2 tỷ USD. Do đó, điều quan trọng là làm thế nào để EVN có thể tăng giá điện, đồng thời bảo vệ những người nghèo, những người dễ bị tổn thương ở khu vực nông thôn. Với các hoạt động kinh doanh cần trả tiền theo giá thực, khi đó mọi người sẽ có ý thức thực hiện tiết kiệm năng lượng.

Việt Nam có thể giảm lượng khí thải carbon bằng sử dụng công nghệ sạch hơn để vận hành nhiên liệu hóa thạch. Khoảng 10% tiền mua than và khí có thể chuyển sang dùng cho năng lượng tái tạo. Việt Nam có nguồn lực để làm điều đó”.

Chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero - Ảnh 9

“Trong khoảng thời gian từ năm 2017 - 2022, Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong chuyển đổi năng lượng. Đây là một khởi đầu mạnh mẽ và những nỗ lực này cần được ghi nhận. Năng lượng tái tạo đã có một thị phần đáng kể trong công suất phát điện. Việt Nam đã làm được nhiều điều chỉ trong một thời gian ngắn.

Nền kinh tế Việt Nam có nhiều tiềm năng phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng. Các thế hệ người Việt Nam có thể được hưởng lợi lớn nếu đầu tư vào năng lượng tái tạo, tăng hiệu quả sử dụng năng lượng và xây dựng hệ thống tích trữ năng lượng.

Tuy nhiên, để quá trình chuyển đổi năng lượng diễn ra thành công, bên cạnh một số quyết định, cơ chế, chính sách quan trọng đã được ban hành, thì vẫn còn một số luật và quy định cần phải được thông qua trước năm 2025, như Luật Điện lực, hay cơ chế điện gió ngoài khơi nhằm tạo sự an tâm cho các nhà đầu tư.

Đối với các doanh nghiệp FDI, bao gồm các thành viên EuroCham cũng như các phòng thương mại khác, Việt Nam cần tạo ra sự chắc chắn trong thị trường năng lượng, giảm thiểu rủi ro để trấn an các nhà đầu tư.

Trong nhiều ngành công nghiệp khác như sản xuất, chế biến, các nhà đầu tư hiểu rõ quy định, biết được cách họ sẽ thu được lợi nhuận. Tuy nhiên, thị trường năng lượng vẫn còn một số điểm mơ hồ, không chắc chắn. Do đó, Việt Nam cần đưa ra các thông điệp mạnh mẽ, nhất quán từ các cấp cao nhất, đảm bảo rằng Chính phủ sẽ kiểm soát bức tranh năng lượng cho các nhà đầu tư.

Theo đó, Chính phủ phải đảm bảo rằng thị trường năng lượng sẽ được vận hành một cách rõ ràng, minh bạch. Bên cạnh việc tập trung sản xuất và truyền tải điện tái tạo, một yếu tố mà các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước cần chú ý đến là nhu cầu tiếp nhận và tiêu thụ năng lượng xanh. Đây là điểm mà Việt Nam thực sự cần tận dụng ngay bây giờ. Có nhiều nhà đầu tư nước ngoài trong nước và có muốn tiến vào thị trường Việt Nam đã đưa ra yêu cầu được tiếp cận năng lượng xanh, sạch.

Yêu cầu trên không chỉ đúng về mặt đạo đức, mà còn là những gì cổ đông và ban lãnh đạo các doanh nghiệp này yêu cầu họ thực hiện. Nếu không được cung cấp năng lượng xanh một cách ổn định, họ sẽ phải tìm kiếm các thị trường khác. Vì vậy, nếu Việt Nam muốn nhận được các nguồn FDI tốt, chất lượng cao thì cần phải tập trung vào yếu tố môi trường”.

Chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero - Ảnh 10

VnEconomy 24/07/2024 11:00

 

Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 30-2024 phát hành ngày 22/7/2024. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:

https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam

Chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero - Ảnh 11

11:00 24/07/2024