Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng năm 2022 tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã đạt được kết quả khá ấn tượng. Phải chăng đó cũng là thành quả từ các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động nhằm phục hồi thị trường lao động trước đó? Xin ông đánh giá tác động của những chính sách này đã góp phần ổn định đời sống người dân như thế nào?
Năm 2022 đã trải qua nhiều biến động và diễn biến khó lường ở trong nước cũng như trên thế giới. Đặc biệt là hậu quả của đại dịch Covid-19 và tình hình khó khăn trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của nhân dân, người lao động. Trong bối cảnh đó, các chính sách an sinh xã hội và sự lãnh đạo linh hoạt, sáng suốt của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ và Quốc hội, Đảng, Nhà nước đã ban hành rất nhiều chính sách nhằm khôi phục và phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và đời sống của nhân dân, trong đó có nhiều chính sách chưa có tiền lệ.
Chỉ trong ba năm qua, chúng ta đã ban hành hàng chục chính sách để duy trì mặt bằng chung cho đời sống nhân dân, đảm bảo các chính sách đối với người có công, các hộ nghèo, hộ cận nghèo, các đối tượng bảo trợ và hỗ trợ đối với trẻ em bị ảnh hưởng nặng nề các tác động đại dịch Covid-19. Đặc biệt, từ Nghị quyết 30 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành sáu nghị quyết và quyết định nhằm trực tiếp hỗ trợ người lao động, người dân bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19.
Với sáu nghị quyết và quyết định chưa có tiền lệ này, chúng ta đã huy động tới 104.000 tỷ đồng để hỗ trợ 68,67 triệu lượt người và trên 1,4 triệu người sử dụng lao động trong đại dịch Covid-19. Thông qua chính sách này, đã góp phần khôi phục lại sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, đặc biệt là duy trì chuỗi cung ứng lao động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, khu công nghiệp. Việc duy trì lực lượng lao động đã góp phần quan trọng vào ổn định, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, người lao động.
Thưa ông, việc xây dựng các chính sách hỗ trợ khẩn cấp đảm bảo an sinh xã hội chắc không thể tránh khỏi những hạn chế thiếu sót. Vậy đâu là những bài học kinh nghiệm để xây dựng chính sách cũng như những cải tiến việc thực hiện chính sách an sinh xã hội kịp thời, đúng đối tượng?
Tôi cho rằng việc xây dựng các chính sách vừa qua chủ yếu mới chỉ mang tính chất tình thế, trong đó có nhiều chính sách có tính chất là giải quyết những việc trước mắt, tức thì. Vấn đề quan trọng hiện nay là chúng ta phải tính đến một bài toán căn cơ, lâu dài hơn trong xây dựng mạng lưới chính sách xã hội hay còn gọi là lưới an sinh xã hội.
Hiện nay, lưới an sinh xã hội của chúng ta đang duy trì sự đảm bảo mức độ hỗ trợ tối thiểu, thời gian tới sẽ phải tính toán tới duy trì mặt bằng, nhưng đòi hỏi cao hơn một bước. Đó là các chính sách có thể đảm bảo cho người dân, người lao động được ba yếu tố: Phòng ngừa rủi ro, khắc phục rủi ro và chủ động ứng phó với rủi ro. Khi đó, lưới an sinh và chính sách xã hội của chúng ta sẽ đảm bảo bền vững và toàn diện.
Khi ban hành các chính sách đặc thù hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động trong đại dịch Covid-19 và hậu Covid-19, thời gian vừa qua chúng ta cải tiến rất nhiều. Cải tiến từ quy trình ban hành văn bản, hồ sơ, thủ tục cho tới việc thực hiện với một tinh thần cố gắng nhanh nhất, gọn nhất và dễ tiếp cận nhất cho người lao động và người sử dụng lao động. Đặc biệt điểm mới nhất là chúng ta đã đẩy nhanh việc ứng dụng tiến bộ công nghệ và thực hiện chi trả chủ yếu qua tài khoản của người lao động trên cơ sở các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, các cơ sở dữ liệu mà ngành bảo hiểm có. Ví dụ như khi thực hiện Nghị quyết 116, chúng ta chi tới 41.000 tỷ đồng, nhưng chỉ hỗ trợ trong vòng có ba tháng. Cũng với số tiền này. nếu chúng ta thực hiện chi trả thủ công thì có khi mất cả năm mà không xong.
Điều quan trọng là thông qua các cơ sở dữ liệu và tài khoản, việc chi trả không chỉ nhanh mà còn minh bạch và khắc phục được tình trạng gian lận và dối trá trong việc tổ chức thực hiện. Đặc biệt, các chính sách đến với người lao động nhanh và đúng thời điểm mà người lao động đang cần.
Việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội của Nhà nước thời gian qua đã có vai trò hết sức quan trọng nhằm khắc phục các rủi ro, ổn định đời sống người dân, không để đứt gãy chuỗi cung ứng lao động. Trước những diễn biến khó lường trên thế giới hiện nay, ông dự báo nhu cầu lao động năm 2023 của nước ta như thế nào?
Năm 2022 và cả cuối năm 2021 là thời gian đặt ra thách thức hết sức lớn khi đại dịch Covid-19 và khủng hoảng kinh tế tấn công vào các khu công nghiệp, thành trì quan trọng của nền sản xuất, đặc biệt là tại khu vực phía Nam. Khi đó, điều mà chúng ta lo nhất chính là đứt gãy chuỗi cung ứng lao động. Tuy nhiên, với nhiều cách làm và chính sách khác nhau cùng sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là sự nỗ lực của người dân và doanh nghiệp, đến nay có thể khẳng định rằng chúng ta không những không để đứt gãy chuỗi cung ứng lao động mà còn khôi phục một cách nhanh chóng và ổn định. Qua tổng kết, chúng tôi thấy rằng thị trường lao động ổn định nhanh hơn so với dự báo của quốc tế và nhanh hơn so với dự báo của chúng tôi khoảng 6 tháng.
Đến thời điểm này, trên quy mô cả nước thị trường lao động chúng ta ổn định tương đối tốt cả về quy mô và chất lượng. Tuy nhiên, vẫn còn có tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ, nhất là thiếu hụt lực lượng lao động có trình độ kỹ thuật cao.
Trong những tháng cuối năm 2022 ở 63 tỉnh, thành phố, khoảng trên 600 doanh nghiệp bị ảnh hưởng, thu hẹp đơn hàng khiến khoảng 53.000 lao động mất việc. Tuy nhiên, các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động là trên 300.000 lao động. Như vậy, vấn đề quan trọng là xảy ra tình trạng nơi thì thiếu lao động cục bộ nhưng có nơi thì thừa. Do đó điều quan quan trọng nhất là điều tiết cung cầu lao động cho phù hợp.
Trong năm 2023, dự báo tình trạng thiếu lao động cục bộ sẽ tiếp tục diễn trong quý 1, quý 2. Theo chúng tôi tính toán, nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp khoảng 350.000-400.000 lao động ở các lĩnh vực khác nhau. Vấn đề quan trọng là các doanh nghiệp phải có giải pháp để giữ chân, thu hút người lao động. Đặc biệt, chúng ta phải có chính sách đào tạo, đào tạo lại lực lượng lao động, đặc biệt là đào tạo đội ngũ có chất lượng cao, những người có kỹ năng cao để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của doanh nghiệp.
Thưa ông, các chính sách an sinh xã hội luôn có mối liên hệ với việc xây dựng phát triển một thị trường lao động tạo việc làm đầy đủ, thu nhập ổn định, bền vững cho người lao động. Việc làm - an sinh xã hội là những những thách thức lớn, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội sẽ giải quyết việc này như thế nào trong năm 2023 và thời gian tới?
Tôi cho rằng thời gian tới chúng ta sẽ gặp rất nhiều thách thức, áp lực, đặc biệt là trong bão lạm phát của thế giới. Trong bối cảnh thu hẹp thị trường lao động, những thách thức với doanh nghiệp sẽ dẫn đến thách thức về lao động và đi liền là thách thức về an sinh xã hội. Do đó, hai vấn đề việc làm và an sinh xã hội sẽ cần giải quyết đồng bộ và tiến hành đồng thời.
Cụ thể, chúng ta sẽ phải đối mặt với năm vấn đề lớn. Thứ nhất, thời gian tới Việt Nam sẽ là một trong những nước có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất, điều này buộc chúng ta phải tính toán đến thị trường lao động, đến việc làm cho người trẻ, cho người cao tuổi có nhu cầu, có sức khỏe để tận dụng tiềm năng của họ. Thứ hai, thách thức từ vấn đề lao động di cư, lao động phi chính thức. Thứ ba, tác động của biến đổi khí hậu sẽ tác động rất quyết liệt đến thị trường lao động, đến đời sống của người lao động. Chúng ta phải tính toán ngay và đi sớm hơn so với tác động của biến đổi khí hậu. Thứ tư, vấn đề thị trường lao động đang chuyển đổi, nhất là khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp. Hiện nay, việc chuyển đổi này của chúng ta phần lớn là việc làm thiếu bền vững thì chúng ta phấn đấu tới đây là việc làm thỏa đáng và bền vững hơn. Thứ năm, chúng ta đặt ra rất nhiều khát vọng và mục tiêu đến năm 2035 nhưng muốn thực hiện được thì việc đầu tiên nhất là phải quan tâm đến vấn đề chuyển đổi nhân lực mà việc chuyển đổi này phải đi trước một bước.
Năm 2023 và những năm tới, việc hình thành một thị trường lao động linh hoạt, đồng bộ, hiện đại, bền vững và mang yếu tố hội nhập phải đi cùng với xây dựng và phát triển một hệ thống chính sách an sinh xã hội toàn diện, bao trùm và bền vững. Hai vấn đề này phải được tiến hành đồng bộ. Chúng ta làm một cách căn cơ và quan trọng hơn là xây dựng một khung chính sách đồng bộ, không để xảy ra tình trạng gặp đâu hay đấy và thấy gì khó khăn thì gỡ, mà chúng ta xây dựng chiến lược một bài bản hơn, căn cơ hơn trong thời gian tới.
Với vai trò là tư lệnh ngành Lao động-Thương binh và Xã hội, điều trăn trở nhất trong việc thực hiện các nhiệm vụ của ngành trong năm 2023 là gì, thưa ông?
Điều tôi rất mong muốn là chúng ta phải xây dựng được một Nghị quyết chuyên đề về chính sách xã hội với một tầm nhìn thông thoáng hơn, toàn diện hơn, bao trùm hơn đến năm 2035 và tầm nhìn đến 2045. Khi có Nghị quyết này, chúng ta thể chế bằng các luật, hệ thống chính sách.
Trọng tâm trong năm 2023, cùng với Bộ luật Lao động việc sửa hai luật: Luật Bảo hiểm xã hội và Luật Việc làm sẽ là yếu tố then chốt nhất của toàn bộ hệ thống lao động việc làm của chúng ta trong thời gian tới.
Đi liền với giải quyết những vấn đề liên quan đến hệ thống chính sách về xã hội thì khi đó chúng ta sẽ đi một cách vững vàng hơn và thể hiện khát vọng của chúng ta thực hiện được phương châm và chỉ đạo của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Chúng ta không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội để đánh đổi lấy phát triển kinh tế đơn thuần”.
Sự tiến bộ, công bằng xã hội phải bắt đầu từ các chính sách, từ những công việc cụ thể với một tư duy, tầm nhìn xa hơn nhưng hành động phải mau lẹ hơn. Chúng ta bắt đầu từ những công việc cụ thể và từ chủ trương xây dựng khung khổ chính sách. Đó là những vấn đề chúng tôi trăn trở hiện nay.
VnEconomy 21/02/2023 11:00
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 8-2023 phát hành ngày 20-02-2023. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam
11:00 21/02/2023