“Trong 5 năm gần đây, tình trạng chậm được thanh toán đối với công nợ phải thu của các doanh nghiệp xây dựng là vấn đề nhức nhối và ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với Tổng công ty xây dựng Trường Sơn, nợ đọng diễn ra ở các dự án, gói thầu đơn vị ký hợp đồng với chủ đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ... Nợ đọng không chỉ 5 năm gần đây mà còn có những khoản kéo dài trên 10 năm gây không ít hệ lụy cho doanh nghiệp.
Hiện chúng tôi có 1.280 hợp đồng có giá trị công nợ phải thu, gồm (382 hợp đồng đang theo dõi công nợ tại các đơn vị là công ty con, 119 hợp đồng xây lắp và 779 hợp đồng RPBM được theo dõi tại TCT mẹ). Có tổng số nợ phải thu tại thời điểm 31/3/2022 là: 1.539 tỷ đồng. Trong đó: công nợ các công trình chủ đầu tư là đơn vị quản lý vốn nhà nước là 1.004 tỷ, doanh nghiêp tư nhân là 535 tỷ đồng. Nợ từ 1 đến 3 năm là 506 tỷ đồng, nợ từ 3 đến 5 năm là 539 tỷ đồng, nợ trên 5 năm là 149 tỷ đồng.
Với những vướng mắc về thủ tục thanh, quyết toán hợp đồng các dự án xây dựng, chúng tôi nhận thấy rằng về thời gian thanh toán kèm thêm điều kiện khác, theo hướng dẫn của Nhà nước việc thanh toán khối lượng hoàn thành cho nhà thầu được xác định trong một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, một số hợp đồng chúng tôi đang thực hiện, cụ thể các dự án cao tốc giai đoạn 2017-2020 chủ đầu tư lại yêu cầu thêm điều kiện dự án được bố trí đủ vốn mới thanh toán đúng thời gian. Quy định bổ sung này không phù hợp với quy định của pháp luật về xây dựng.
Về thời hạn thanh toán khi giá trị hợp đồng sau điều chỉnh vượt giá gói thầu, việc giá trị hợp đồng sau điều chỉnh vượt giá gói thầu là do biến động của thị trường diễn ra bất thường hoặc do tính toán của chủ đầu tư không lường trước được các nội dung phát sinh điều chỉnh, việc này hoàn toàn không phải do lỗi của nhà thầu. Lẽ ra, chủ đầu tư cần phải thực hiện thanh toán cho nhà thầu đúng với thời gian thống nhất trong điều khoản thanh toán chứ không thể chờ đến khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt mới thanh toán.
Về tiền giữ lại chờ quyết toán, theo quy định của pháp luật về xây dựng không quy định bắt buộc phải giữ lại khoản tiền phục vụ công tác quyết toán công trình. Tuy nhiên, tại các hợp đồng chúng tôi ký kết, chủ đầu tư vẫn yêu cầu giữ lại từ 2% đến 5% giá trị để chờ quyết toán. Về vấn đề này, chúng tôi thấy rằng vốn để luân chuyển cho sản xuất kinh doanh của nhà thầu là rất quan trọng, việc giữ lại tiền nếu thấy không cần thiết chủ đầu tư không nên giữ lại. Nếu cần thiết phải giữ lại, chỉ cần tạm thanh toán với tỷ lệ nhất định đối các hạng mục công việc mà khối lượng phát sinh tăng 20% (đơn giá phải lập lại mới) so với khối lượng hợp đồng và khối lượng công việc phát sinh chưa có đơn giá trong hợp đồng khi chưa được các bên thống nhất đơn giá”.
“Tình trạng chậm thanh toán đối với công nợ là vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng rất lớn đến dòng tiền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến tình trạng đóng bảo hiểm cho người lao động, nộp thuế nhà nước, gây hệ lụy cho xã hội. Hiện tại, tổng số nợ đọng của Cienco4 là 187 tỷ đồng.
Nguyên nhân là vì, sau khi công trình được nghiệm thu đưa vào sử dụng, chủ đầu tư ít quan tâm tới kế hoạch vốn, chậm bố trí vốn trả nợ cho nhà thầu. Công tác thanh tra, kiểm toán, quyết toán công trình hoàn thành chậm, kéo dài làm ảnh hưởng nhiều đến việc thu hồi công nợ. Vì thế, chúng tôi kiến nghị chủ đầu tư phải có bảo lãnh thanh toán, ít nhất là 30% cuối cùng của dự án. Khi sửa đổi Luật Xây dựng, cần đưa vấn đề này vào luật. Hoặc về cơ chế của chủ đầu tư cũng phải đảm bảo thanh toán hết tiền cho nhà thầu rồi mới được đưa công trình vào sử dụng.
Cần tháo gỡ kịp thời những vướng mắc, loại bỏ tình trạng chiếm dụng vốn và nợ đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản, chính là bảo vệ lợi ích chính đáng cho nhà thầu. Cần có cơ chế linh hoạt trong việc cho phép quyết toán và bố trí vốn cho riêng từng gói thầu. Không để tình trạng các gói thầu trong cùng một dự án phải chờ đợi nhau, phải hoàn thành toàn bộ quyết toán các gói thầu thì mới có cơ sở quyết toán dự án và bố trí vốn. Ví như Cầu Đông Trù, phía Cienco4 đã hoàn thành nghĩa vụ bảo hành và quyết toán thời gian đã lâu, nhưng vẫn chưa được bố trí vốn do phải chờ đợi các gói thầu khác hoàn thành công tác quyết toán với chủ đầu tư.
Các tồn tại của việc quyết toán công trình, đặc biệt là các quyết toán công trình địa phương (hiện nay khi nhà thầu ký quyết toán với ban quản lý dự án xong còn phải trình bộ, trình các sở ban ngành của tỉnh thì thời gian chờ rất lâu. Có những công trình, điển hình như Đông Trù, Vĩnh Tuy của Cienco4 đã gần 10 năm vẫn chưa quyết toán, đọng vốn.
Để khắc phục tình trạng đọng vốn, chậm quyết toán, chậm thanh tra, kiểm toán gây khó khăn cho doanh nghiệp khi công trình để lâu, cán bộ phụ trách thay đổi, nhiều lúc kiểm toán Nhà nước áp chính sách hiện tại, cách nhìn hiện tại cho thời điểm công trình thi công rất bất cập. Vì vậy, cần quy định công trình khi hoàn tất bao lâu thì sẽ không phải thanh tra, kiểm toán nữa”.
“Các công trình giao thông thường có thời gian thi công kéo dài trải qua nhiều biến động và cơ chế chính sách, giá cả và điều kiện nguồn vốn.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, mặc dù nhà thầu thi công công trình đúng thỏa thuận trong hợp đồng đã ký kết nhưng vẫn gặp quá nhiều lý do nên không thể thanh lý được hợp đồng. Ví như chủ đầu tư có điều chỉnh giá nhưng thông báo giá chậm, công bố giá vật liệu và chỉ số giá do địa phương ban hành không bám sát biến động thị trường; chủ đầu tư thay đổi thiết kế; lợi dụng nhu cầu công việc làm của các nhà thầu trong quá trình thực hiện, có chủ đầu tư tạo ra những khó khăn như xử phạt, thay đổi bộ máy nhân sự, thay đổi tư vấn giám sát, tư vấn quản lý dự án... đẩy nhà thầu lâm vào tình trạng bế tắc trong việc triển khai thực hiện dự án cũng như ghi nhận các giá trị thực hiện, ảnh hưởng đến công tác thanh quyết toán và nghiệm thu công trình…
Qua đây CC1 đề xuất: đưa vào luật điều kiện giải phóng mặt bằng (GPMB) 100% diện tích gói thầu hoặc phân khu nơi có hợp đồng xây dựng được xác lập. Gắn trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương nơi có dự án đầu tư công đi qua trong công tác GPMB. Đưa vào luật điều kiện bảo lãnh tạm ứng và bảo lãnh thanh toán đối với chủ đầu tư.
Về đơn giá, để phù hợp với điều kiện thị trường hiện nay, đề nghị không áp dụng giá thầu trọn gói (đặc biệt đối với các dự án ngân sách). Công bố giá vật liệu, nhân công và chỉ số giá do địa phương ban hành phải được cập nhật sát biến động thị trường và đúng - đủ đối với tiêu chuẩn và cấp công trình. Trong trường hợp đặc biệt, báo cáo xin ý kiến Bộ GTVT; Bộ Xây dựng thuê tư vấn xây dựng chỉ số giá riêng cho các công trình, gói thầu đặc biệt.
Trong trường hợp công trình phải đưa vào sử dụng vì nhiều lý do khi chưa hoàn thành 100% thì cần được nghiệm thu đưa vào sử dụng và tính thời gian bảo hành đối với các hạng mục độc lập đã hoàn thành. Thực hiện thanh quyết toán những hạng mục đã hoàn thành, không phụ thuộc các hạng mục thành phần khác trong trường hợp dự án bị kéo dài vì những lý do khách quan hoặc những hạng mục độc lập khác chưa hoàn thành trong tổng thể dự án. Đồng thời cần xây dựng khung năng lực đối với chủ đầu tư”.
“Một trong những nguyên nhân làm cho các nhà thầu ngày càng gặp nhiều khó khăn là việc bị nợ đọng tiền thi công, do những tranh chấp hợp đồng và chậm hoặc trì hoãn thanh toán. Kinh nghiệm làm việc với nước ngoài, nhất là với các đối tác châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Canada cho thấy, họ rất tuân thủ hợp đồng. Khi có bất đồng hay tranh chấp hai bên thường ngồi lại, không cần phải có lãnh đạo cao nhất ký hợp đồng, mà chỉ cần đại diện chỉ huy công trường, bàn bạc có tình có lý và thống nhất cách giải quyết một cách công bằng, hài hòa.
Ở Việt Nam, rất khó thực hiện được như vậy. Với gần 50 năm kinh nghiệm thi công và thanh quyết toán các công trình, chúng tôi thấy thủ tục thanh quyết toán rất rườm rà, phiền phức mà người thiệt hại trước hết là nhà thầu. Ví dụ: hợp đồng thi công là chế tạo 500 tấn của một hạng mục thiết bị cơ khí, nhưng thực tế sau khi làm xong là 530 tấn, nhà thầu chỉ được thanh toán tạm 500 tấn, còn 30 tấn vượt khối lượng nhà thầu đã bỏ tiền ra làm rồi thì bị tạm giữ lại, chờ ký được phụ lục bổ sung hoặc khi quyết toán mới được thanh toán. Đây là lỗi của công tác lập khối lượng của chủ đầu tư hoặc tư vấn, nhưng thiệt hại lại đổ dồn vào nhà thầu.
Việc thực thi loại hình hợp đồng cũng có bất cập. Loại hợp đồng đơn giá cố định thì khi khối lượng phát sinh vượt hợp đồng gây phiền phức như đã nói ở trên. Loại hợp đồng trọn gói thì khối lượng vượt so với khối lượng hợp đồng lại không được thanh toán, khối lượng thi công thấp hơn thì lại lấy theo thực tế. Như vậy còn gọi gì là trọn gói! Chúng tôi đã từng vấp phải vấn đề này và bị thiệt hại và gây ức chế cho cán bộ thực thi công việc. Đơn vị đưa ra ý kiến này làm sai lệch khái niệm loại hình hợp đồng là đơn vị kiểm toán.
Đối với những hợp đồng mà chủ đầu tư hay đối tác bên A (bên trả tiền) là vốn tư nhân, thì bên trả tiền luôn tìm cách trì hoãn thanh toán như bắt bẻ hồ sơ, không bố trí hay điều động người ký hồ sơ đi xa, hoặc khi quyết toán sẽ viện đủ mọi lý do để trốn tránh hoặc trì hoãn để khỏi phải thanh toán, trong khi công trình hay hạng mục công trình đã ban giao, đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả cao.
Tại sao lại có sự khác biệt trong việc thực thi trong việc thanh toán quyết toán hợp đồng, gây tổn hại cho nhà thầu? Tất cả đều xuất phát từ hệ thống cơ chế của chúng ta. Tâm lý chung là ai cũng sợ trách nhiệm, ai cũng sợ mình làm sai, nên tất cả cứ tròn vo, ba phải, đùn đẩy trách nhiệm, nhất là các cơ quan quản lý nhà nước. Hệ thống qui định về hồ sơ thanh toán quá rườm rà và phức tạp, nhiều loại giấy tờ, biểu mẫu. Nhìn qua thấy có vẻ chặt chẽ nhưng cuối cùng lại không chặt mà chỉ gây phiền nhiễu thiệt hại cho nhà thầu. Các cơ quan thanh kiểm tra đôi khi cũng có những trường hợp nặng về “bệnh thành tích”, đi kiểm tra thì kiểu gì cũng phải phát hiện ra sai phạm nên hay bắt bẻ, văn vẹo câu chữ để buộc lỗi nên gây ra tâm lý như vậy.
Một trong những thủ tục gây phiền phức và thiệt hại cho nhà thầu là qui định về phê duyệt quyết toán. Việc này với nhà thầu nước ngoài đều không có. Nhà thầu thực thi công việc thi công, có sự giám sát của nhiều bên liên quan, có khối lượng thực hiện và xác định được giá trị thanh toán, hợp đồng thỏa thuận giữ lại tỷ lệ% để bảo hành và chờ phê duyệt quyết toán, nhưng nhiều khi hết hạn bảo hành 5-10 năm vẫn chưa phê duyệt được quyết toán. Thủ tục phê duyệt quyết toán nhà thầu thấy chặt chẽ thì ít mà phiền nhiễu, hành nhà thầu thì nhiều. Mỗi hợp đồng thi công, trong bối cảnh kinh tế khó khăn, đơn giá cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, lãi chỉ được 3-5%, thậm chí hòa hoặc lỗ, nhưng phê duyệt quyết toán chậm thì coi như lỗ”.
VnEconomy 25/08/2022 14:00
14:00 25/08/2022