Thách thức “dự báo nhu cầu” khi giải bài toán đào tạo nhân lực công nghệ của Việt Nam
Theo các chuyên gia, cần có chính sách định hướng mạnh mẽ từ Nhà nước, kết hợp với thống kê và dự báo nhu cầu nhân lực một cách khoa học và chính xác để định hướng đào tạo nhân lực công nghệ phù hợp với nhu cầu doanh nghiệp…

Việt Nam đang bước vào một giai đoạn then chốt để hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia dẫn đầu về công nghệ và đổi mới sáng tạo vào năm 2045. Trong hành trình này, nguồn nhân lực công nghệ đóng vai trò quan trọng.
ĐÀO TẠO NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ, ĐÁP ỨNG NHU CẦU CỦA DOANH NGHIỆP LÀ MỘT ĐỊNH HƯỚNG LỚN
Theo ông Đoàn Hiếu, Giám đốc Trung tâm đào tạo Bưu chính viễn thông, Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông Việt Nam, đào tạo nhân lực công nghệ để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp là một định hướng lớn của Đảng và Nhà nước, được thể hiện rõ trong Nghị quyết 57-NQ/TW và một loạt các kế hoạch triển khai. Gần đây nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các công nghệ mũi nhọn.
Tuy nhiên, từ góc độ của một cơ sở giáo dục đại học, ông Đoàn Hiếu cho biết thách thức lớn nhất trong câu chuyện nhân lực công nghệ của Việt Nam nằm ở “dự báo nhu cầu nhân lực”.
“Nhiều năm qua, chúng ta đưa ra các con số như cần 1 triệu nhân lực lập trình hay 50.000 kỹ sư thiết kế bán dẫn, nhưng không rõ những con số này được xây dựng dựa trên cơ sở nào, và liệu khi đào tạo ra, các em sinh viên có được doanh nghiệp sử dụng hay không”, ông Hiếu nói.
Về phía Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, ông Đoàn Hiếu cho biết Học viện đang triển khai một loạt chương trình đào tạo mới, phù hợp với định hướng của trường trọng điểm quốc gia về công nghệ và kỹ thuật.
“Chúng tôi đã mở các ngành đào tạo kỹ sư về trí tuệ nhân tạo, mạch bán dẫn và đang nghiên cứu triển khai các ngành liên quan đến vệ tinh tầm thấp hay kế toán điện tử, đáp ứng các nhiệm vụ mũi nhọn được nêu trong Nghị quyết 57-NQ/TW”, Giám đốc Trung tâm đào tạo Bưu chính viễn thông chia sẻ.
“Tuy nhiên, chúng tôi rất thận trọng trong việc xác định quy mô đào tạo, vì qua khảo sát, nhu cầu về kỹ sư trong các lĩnh vực này tại Việt Nam hiện nay chưa thực sự lớn. Nếu xuất khẩu nhân lực ra quốc tế, chúng ta cũng chưa có nguồn nhân lực dồi dào. Trong khi đó, các ngành đào tạo phổ biến như công nghệ thông tin nói chung, dù được nhiều trường triển khai, lại đang đối mặt với nguy cơ dư thừa nhân lực trong tương lai gần”.
Để giải quyết vấn đề này, ông Đoàn Hiếu cho rằng cần có các chính sách định hướng mạnh mẽ từ Nhà nước, kết hợp với thống kê và dự báo nhu cầu nhân lực một cách khoa học và chính xác. Đây là cơ sở quan trọng để định hướng đào tạo phù hợp với nhu cầu doanh nghiệp.
NÚT THẮT “ĐẦU TƯ CƠ SỞ HẠ TẦNG CÔNG NGHỆ” CỦA CÁC TRƯỜNG KHI ĐÀO TẠO NHÂN LỰC
Để giải quyết bài toán đào tạo nhân lực cho các công nghệ mới, Học viện nhận thấy nút thắt lớn nhất là đầu tư vào cơ sở hạ tầng công nghệ. Các khoản đầu tư này thường rất lớn, vượt ngoài khả năng tự chủ tài chính của các trường đại học, đặc biệt khi học phí tại Việt Nam không đủ để trang trải.
Học viện đang nghiên cứu xây dựng một hạ tầng AI dùng chung, đặt tại trường, để các doanh nghiệp, đặc biệt là startup, có thể sử dụng cho nghiên cứu và thực nghiệm sản phẩm, đồng thời phục vụ đào tạo và đào tạo lại nội bộ. Tương tự, với 6G hay các công nghệ viễn thông mới, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông cũng đang hợp tác với các doanh nghiệp như Viettel, nhận được hỗ trợ về phòng thí nghiệm và hướng tới xây dựng các phòng thí nghiệm cho mạng viễn thông thế hệ tiếp theo.
Trước các thách thức, ông Đoàn Hiếu đã đề xuất ba giải pháp chính.
Thứ nhất là cần đầu tư từ Nhà nước cho hạ tầng công nghệ.
Thứ hai là gắn bó chặt chẽ với doanh nghiệp, tận dụng nguồn vốn và tài nguyên của họ để sinh viên tiếp cận công nghệ mới ngay từ trong trường.
Thứ ba là xây dựng mô hình đào tạo liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp. “Gần đây, chúng tôi học hỏi mô hình của Đại học Thâm Quyến, Trung Quốc, các trường “đặt hàng” phòng thí nghiệm của các doanh nghiệp hàng đầu thế giới, như Huawei, để đào tạo theo chương trình của họ. Chúng tôi cũng đang triển khai mô hình tương tự, kết hợp với doanh nghiệp để đào tạo kép, giúp sinh viên đáp ứng nhu cầu thực tế”, Giám đốc Trung tâm đào tạo Bưu chính viễn thông, Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông Việt Nam, chia sẻ.
Ngoài ra, để thu hút nhân tài, Học viện sẽ xây dựng các chương trình đào tạo đặc biệt, cung cấp học bổng, cơ hội thực tập tại doanh nghiệp lớn hoặc trường quốc tế, thậm chí trả lương cho sinh viên xuất sắc để họ coi việc học là một nghề có trách nhiệm với xã hội.
MÔ HÌNH HỢP TÁC "4 NHÀ": CHÍNH PHỦ, DOANH NGHIỆP, VIỆN NGHIÊN CỨU, TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Theo ông Nguyễn Tuấn Huy, Uỷ viên Ban Thường vụ VINASA, Trưởng ban Chuyển đổi số Tổng Công ty Viễn thông MobiFone, thực tế, nhu cầu nhân lực công nghệ tại Việt Nam vẫn rất lớn, đặc biệt trong các lĩnh vực mũi nhọn. Hơn nữa, vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong việc tạo ra nhu cầu nhân lực và tham gia đào tạo rất quan trọng.
Theo tinh thần của “Bộ tứ chiến lược”: Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57), hội nhập quốc tế (Nghị quyết 59), xây dựng và thực thi pháp luật (Nghị quyết 66), phát triển kinh tế tư nhân (Nghị quyết 68), doanh nghiệp tư nhân không chỉ tạo ra nhu cầu mà còn trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo.
Ông Nguyễn Mạnh Cường, Giám đốc Phát triển Đổi mới sáng tạo và Công nghệ của Sovico Group, đã chia sẻ về chương trình đào tạo “2+2+4” hợp tác với các trường đại học tại Đài Loan. Theo chương trình này, sinh viên sẽ học 2 năm tại một trường đại học ở Việt Nam, sau đó được tài trợ học phí và chi phí sinh hoạt để học 2 năm tại Đài Loan. Sau khi tốt nghiệp, sinh viên nhận bằng cử nhân từ trường đại học Đài Loan và có cơ hội làm việc 4 năm tại các công ty bán dẫn ở Đài Loan.
Điều này cho thấy những chuyển động tích cực trong việc phát triển nhân lực công nghệ cao của Việt Nam. Tuy nhiên, các chuyên gia đều cho rằng để đạt được mục tiêu như 50.000 kỹ sư AI hay 50.000 kỹ sư thiết kế bán dẫn, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp.
Nhìn ra thế giới, một kinh nghiệm của Trung Quốc được các chuyên gia đưa ra là để đào tạo nhân lực công nghệ, Trung Quốc thực hiện chặt chẽ sự phối hợp của bốn “nhà”: chính phủ, doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học. Hàn Quốc cũng là một ví dụ thành công, với sự hợp tác chặt chẽ giữa Samsung và các trường đại học, dành tới 40% ngân sách cho nghiên cứu và phát triển.
Tại Việt Nam, ông Nguyễn Tuấn Huy cho biết Mobifone cũng mong muốn hợp tác toàn diện với Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông để đào tạo nhân lực theo nhu cầu, tương tự mô hình của Samsung, nhưng có điều chỉnh cho phù hợp.
“Samsung cấp học bổng cho sinh viên tham gia khóa học mà không yêu cầu cam kết, nhưng qua đó tuyển chọn được nhân tài và quảng bá hình ảnh. Tuy nhiên, với doanh nghiệp nhà nước như Mobifone, việc xây dựng chế độ đãi ngộ hấp dẫn vẫn còn nhiều khó khăn”, ông Nguyễn Tuấn Huy chia sẻ.