16:42 06/03/2025

Định kiến giới là thách thức lớn nhất khi phụ nữ Việt Nam tham gia STEM

Bảo Bình

Nghiên cứu khẳng định năng lực STEM của nam và nữ là như nhau, nhưng phụ nữ vẫn tham gia hạn chế trong lĩnh vực này. Điều này cho thấy vấn đề không nằm ở năng lực, mà ở cơ hội và môi trường xã hội…

Sự kiện truyền thông, nâng cao năng lực nữ giới trong STEM được tổ chức tại trường THPT Vân Nội, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội
Sự kiện truyền thông, nâng cao năng lực nữ giới trong STEM được tổ chức tại trường THPT Vân Nội, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

Trong bối cảnh Việt Nam đang phát triển kinh tế mạnh mẽ và hội nhập sâu rộng với thế giới, sự tham gia của phụ nữ và các em gái vào các lĩnh vực Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học (STEM) không chỉ là vấn đề bình đẳng giới mà còn là chìa khóa để tối ưu hóa nguồn lực quốc gia. 

TỶ LỆ PHỤ NỮ VIỆT NAM GIỮ CÁC VỊ TRÍ LÃNH ĐẠO TRONG STEM “RẤT THẤP”

So với thế giới, Việt Nam đang ghi dấu ấn tích cực về tỷ lệ phụ nữ và các em gái tham gia STEM. Theo các báo cáo từ UNESCO và các tổ chức quốc tế, tỷ lệ trung bình toàn cầu của nữ giới trong các ngành Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học chỉ khoảng 30%. Con số này được tính dựa trên dữ liệu từ nhiều quốc gia, từ các nước phát triển như Mỹ, châu Âu đến các nước đang phát triển ở châu Phi và châu Á. Tuy nhiên, tại Việt Nam, các khảo sát từ Bộ Giáo dục và các tổ chức phi chính phủ cho thấy tỷ lệ này cao hơn, đạt khoảng 37-38%.

So sánh với các nước Đông Nam Á như Thái Lan hay Indonesia – nơi tỷ lệ chỉ dao động từ 30-32% – Việt Nam nổi bật hơn hẳn. Theo bà Trần Vân Anh, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Phát triển bền vững (MSD), đây là một tín hiệu đáng khích lệ, phản ánh những tiến bộ trong giáo dục khi các trường học ngày càng khuyến khích học sinh tiếp cận STEM từ sớm. Các cuộc thi khoa học, lớp học lập trình và chương trình hỗ trợ nữ sinh của Bộ Giáo dục đã giúp các em gái có cơ hội tiếp cận lĩnh vực này, tạo ra kết quả vượt trội so với nhiều quốc gia khác.

Tuy nhiên, bà Vân Anh cho rằng con số 37-38% vẫn cho thấy một khoảng cách giới đáng kể. Có thể hình dung, trong một lớp học STEM giả định với 100 người, chỉ khoảng 37 người là nữ, còn lại 63 người là nam. “Sự mất cân bằng này không hề nhỏ, khi hơn 60% tổng số người tham gia STEM là nam giới”, bà Vân Anh nói. 

Đặc biệt, dù đã tăng đến con số 37-38%, nhưng tỷ lệ phụ nữ giữ các vị trí lãnh đạo trong STEM tại Việt Nam – như giám đốc công nghệ (CTO), trưởng nhóm nghiên cứu AI hay nhà khoa học hàng đầu – vẫn rất thấp. Chia sẻ về vấn đề này, bà Vân Anh, cho biết dù 37% phụ nữ Việt Nam tham gia STEM, phần lớn họ vẫn làm công việc hỗ trợ như hành chính, tiếp thị thay vì các vị trí kỹ thuật cao như lập trình, thiết kế máy móc hay nghiên cứu khoa học. 

Bà Trần Vân Anh cho biết những nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng rào cản về giới vẫn là những thách thức chính cản trở nữ sinh tiếp cận và theo đuổi đam mê nghề nghiệp trong lĩnh vực STEM. 
Bà Trần Vân Anh cho biết những nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng rào cản về giới vẫn là những thách thức chính cản trở nữ sinh tiếp cận và theo đuổi đam mê nghề nghiệp trong lĩnh vực STEM. 

“Khái niệm "leaky pipeline" (ống nước rò rỉ) đã được các nhà nghiên cứu sử dụng để mô tả sự suy giảm dần số lượng phụ nữ trong lĩnh vực STEM. Hình ảnh này cho thấy mặc dù có 37% nữ sinh bắt đầu học STEM, nhưng càng tiến xa trong con đường học tập và sự nghiệp – từ đại học, đến các công việc kỹ thuật chuyên sâu, rồi lên các vị trí lãnh đạo – thì tỷ lệ này giảm dần. Giống như một đường ống bị rò rỉ, nữ giới dần "rơi rụng" ở mỗi giai đoạn. Đến cuối hành trình, ở các vị trí cao nhất như kỹ sư trưởng hay nhà khoa học hàng đầu, số lượng phụ nữ còn lại là rất ít. Hiện tượng này cũng xảy ra tại Việt Nam, khi từ mức 37% ban đầu, tỷ lệ phụ nữ trong STEM giảm đáng kể khi bước lên các cấp cao hơn”, lãnh đạo MSD nói.

KHÔNG CÓ SỰ KHÁC BIỆT VỀ NĂNG LỰC STEM GIỮA NAM VÀ NỮ

Bà Trần Vân Anh cho biết nghiên cứu đã chỉ ra rằng không có sự khác biệt về năng lực STEM giữa nam và nữ. Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra tư duy logic, khả năng giải quyết vấn đề, tính toán và sáng tạo của hàng ngàn người ở nhiều lĩnh vực như kỹ sư, lập trình viên, nhà khoa học, nhà toán học. Kết quả cho thấy cả hai giới đạt tỷ lệ chính xác tương đương khi được đào tạo như nhau, chứng minh rằng năng lực STEM không phụ thuộc vào giới tính mà do yếu tố khác.

“Nghiên cứu khẳng định năng lực STEM của nam và nữ là như nhau, nhưng phụ nữ vẫn tham gia hạn chế trong lĩnh vực này. Điều này cho thấy vấn đề không nằm ở năng lực, mà ở cơ hội và môi trường xã hội”, bà Vân Anh nói.

Theo chuyên gia của MSD, định kiến giới là rào cản lớn nhất đối với phụ nữ trong lĩnh vực STEM. Ở Việt Nam, STEM thường được xem là “địa hạt của nam giới”. Nhiều người mặc định con trai giỏi toán, công nghệ, kỹ thuật, còn con gái hợp với văn, chăm sóc, hay các nghề như giáo viên, y tá. Định kiến này không chỉ đến từ nam giới mà đôi khi chính phụ nữ cũng tự giới hạn bản thân.

Khảo sát năm 2023 của MSD với gần 7.000 học sinh trên cả nước cho thấy hơn 70% học sinh thường xuyên nghe và đồng ý với quan niệm “con trai hợp làm kỹ sư, con gái hợp làm giáo viên”. Đáng chú ý, 100% giáo viên được phỏng vấn cũng cho rằng con trai có thế mạnh về khoa học tự nhiên, còn con gái phù hợp với môn xã hội.

 
Bà Trần Vân Anh, Phó Viện trưởng Viện MSD.
Bà Trần Vân Anh, Phó Viện trưởng Viện MSD.

"Sự tham gia của phụ nữ trong STEM không chỉ quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội mà còn mở ra cơ hội nghề nghiệp bền vững. Một lập trình viên nữ có thể kiếm được công việc lương cao, hay một nhà khoa học nữ có thể tạo ra công nghệ mới giúp Việt Nam cạnh tranh quốc tế".

Rõ ràng, định kiến giới đã len lỏi vào giáo dục. Thầy cô thường khuyến khích con trai học toán, lý, hóa, còn con gái học văn, sử, địa. Điều này khiến nữ sinh mất tự tin theo đuổi STEM, dù năng lực không thua kém. Khi giáo viên nói “con hợp với văn hơn toán”, một học sinh nữ có thể bị loại khỏi đội tuyển toán dù có tiềm năng. “Trong trường hợp này, tự tin, yếu tố then chốt để thành công trong STEM, đã bị định kiến làm suy giảm”.

Hơn nữa, khi phụ nữ trở thành thiểu số trong STEM, họ dễ cảm thấy lạc lõng. Chẳng hạn, trong một phòng kỹ thuật với 20 người mà chỉ có 2-3 người là nữ, họ có thể chịu áp lực, thiếu hỗ trợ và đôi khi bị phân biệt đối xử. Điều này khiến việc gắn bó với STEM trở thành thách thức lớn.

STEM MỞ RA CƠ HỘI NGHỀ NGHIỆP BỀN VỮNG, LƯƠNG CAO CHO PHỤ NỮ

Theo bà Trần Vân Anh, để thu hẹp khoảng cách giới trong STEM, cần hành động từ nhiều phía. Trước hết, gia đình và nhà trường phải thay đổi cách tiếp cận. Chính phủ cũng có thể điều chỉnh giáo dục STEM để khuyến khích nữ sinh tham gia. Chẳng hạn, sách giáo khoa cần cân bằng hình ảnh: thay vì chỉ có “chú kỹ sư” hay “anh lập trình viên”, cần thêm “cô kỹ sư” hay “chị lập trình viên”. Hiện nay, hình ảnh nghề y tá, giáo viên thường gắn với nữ, còn STEM gắn với nam, vô tình củng cố định kiến. Một tỷ lệ hình minh họa nam – nữ cân bằng sẽ tạo nhận thức bình đẳng từ nhỏ.

Ngoài ra, chính sách không chỉ dừng ở tuyển sinh mà cần đảm bảo môi trường học tập thân thiện với nữ sinh. Bởi vì, dù nhiều trường kỹ thuật không phân biệt giới khi xét tuyển, nữ sinh vẫn gặp khó khăn: lớp học toàn nam, ít giảng viên nữ. Điều này khiến họ cảm thấy lạc lõng và khó theo đuổi ngành. Các trường cần đầu tư vào cơ sở vật chất, tăng số giảng viên nữ và tạo cộng đồng hỗ trợ để nữ sinh tự tin hơn.

Sự tham gia của phụ nữ trong STEM không chỉ là vấn đề công bằng mà còn là động lực đổi mới sáng tạo. Phụ nữ trong khoa học có thể nghiên cứu giải pháp mới, trong công nghệ có thể phát triển phần mềm, trong kỹ thuật có thể thiết kế máy móc, và trong toán học có thể phân tích dữ liệu. Khi họ tham gia nhiều hơn, Việt Nam không chỉ tận dụng được toàn bộ tiềm năng nguồn lực mà còn nâng cao vị thế trên trường quốc tế. 

Đặc biệt, sự tham gia của phụ nữ trong STEM không chỉ quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội mà còn mở ra cơ hội nghề nghiệp bền vững. Một lập trình viên nữ có thể kiếm được công việc lương cao, hay một nhà khoa học nữ có thể tạo ra công nghệ mới giúp Việt Nam cạnh tranh quốc tế. 

“Đây là lợi ích kép: vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội”, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Phát triển bền vững nói.