EVFTA: 90% nguyên liệu đi nhập, dù thuế về 0% doanh nghiệp dệt may vẫn "công cốc"
Nếu như không có chiến lược cụ thể, những ưu đãi thuế mãi chỉ nằm trên giấy
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) với những cam kết thuế quan cắt giảm rất sâu nhưng phải đảm bảo quy tắc xuất xứ từ vải. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt vẫn chưa thể giải được bài toán tự chủ nguồn nguyên liệu để hưởng những ưu đãi thuế quan hàng tỷ đô la đó.
Đó chính là vấn đề được nêu ra tại toạ đàm: "Ngành dệt may Việt Nam trước thách thức và cơ hội từ thị trường châu Âu" ngày 2/8. Nếu như không có chiến lược cụ thể, những ưu đãi thuế mãi chỉ nằm trên giấy.
90% nguyên liệu dệt may vẫn đi nhập
Để biến cơ hội thành tiền, biến ưu đãi thuế quan thành lợi thế cho doanh nghiệp dệt may trong EVFTA, Việt Nam phải cởi được nút thắt về nguồn cung thiếu hụt, tức các sản phẩm phải đáp ứng quy tắc xuất xứ theo hiệp định thương mại tự do này.
Theo ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, với dệt may, EVFTA quy định xuất xứ từ vải. Trong khi đó nguồn nguyên liệu vải của Việt Nam đang phụ thuộc lớn vào thị trường Trung Quốc.
"Để tận dụng được cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do, Đảng, Nhà nước, Chính phủ, địa phương cần hoạch định chiến lược phát triển các khu công nghiệp nhằm phát triển phần cung thiếu hụt", ông Giang nói.
Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho rằng: Vấn đề nguồn cung nguyên liệu ngành dệt may là thách thức không chỉ cho ngành dệt may. Nếu không đảm bảo quy tắc xuất xứ thì hàng hóa Việt Nam không được ưu đãi. Đảm bảo quy tắc xuất xứ, dệt may Việt Nam mới được hưởng ưu đãi từ EVFTA.
"Khoảng 90% nguyên phụ liệu của ta đang nhập khẩu từ các nguồn không phải là thành viên của hiệp định và không được ưu đãi cộng gộp trong hiệp định", bà Trang chia sẻ.
Theo đại diện Trung tâm WTO, dệt may không được đánh giá là ngành hưởng lợi nhất trong tăng trưởng sản lượng hay tăng trưởng xuất khẩu sang EU, nhưng đây là ngành hưởng lợi nhất từ phát triển chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Với những yêu cầu cao về quy tắc xuất xứ trong EVFTA cũng như trong nhiều hiệp định khác, đó là động cơ để thu hút đầu tư của trong nước và nước ngoài vào ngành dệt và dệt nhuộm ở Việt Nam.
Một vài năm trước đây Việt Nam gặp khó khi phải đáp ứng quy tắc xuất xứ từ sợi trở đi. Nhưng nay đã tiến bộ hơn nhiều và Việt Nam đã xuất khẩu được sợi.
"Với động lực lực tạo ra từ EVFTA, CPTPP hay các hiệp định khác, tương lai đầu tư cho dệt nhuộm của Việt Nam sẽ tốt hơn, đáp ứng nguồn cung cho hàng dệt may Việt Nam", đại diện Trung tâm WTO chia sẻ.
Ông Vũ Đức Giang cho rằng, dịch chuyển sản xuất trong chiến tranh thương mại Mỹ - Trung sẽ góp phần bù đắp sự thiếu hụt nguyên liệu trong nước. Trước đây doanh nghiệp EU không đầu tư vào dệt may ở Việt Nam. Nhưng năm 2018 đã có 1 tập đoàn Đức đầu tư 1 nhà máy kéo sợi len lông cừu tại Đà Lạt. Nhờ vậy, các doanh nghiệp trong nước chủ động được nguyên phụ liệu đầu vào hơn.
Tuy nhiên, có một thực trạng rất lớn hiện nay của các địa phương đó là từ chối cho các dự án dệt, nhuộm đầu tư trên các địa bàn với lý do ô nhiễm môi trường.
Về vấn đề ngày, ông Giang cho rằng đó là do nhận thức không đầy đủ của các địa phương. Vị Chủ tịch Hiệp hội Dệt may khẳng định: "Hệ thống công nghệ xử lý nước thải của thế giới tiên tiến vô cùng. Chúng tôi đầu tư tư 1 nhà máy ở khu công nghiệp Bảo Minh, đứng sát nhà máy không thấy mùi, không thấy nước có màu đậm như trước đây nữa. Chúng ta cũng đã đến giai đoạn tái sử dụng nguồn nước thải để sản xuất".
Hơn nữa, riêng trong FTA với EU, các khách hàng, đối tác cũng rất quan tâm đến môi trường, chế độ cho người lao động, nếu không tuân thủ các doanh nghiệp cũng không bán được hàng.
"Các địa phương không nên quá lo lắng. Khách hàng của ta họ đánh giá khắt khe hơn nhiều cơ quan quản lý địa phương. Nếu không tuân thủ điều khoản về môi trường thì họ cũng không mua hàng của ta", ông Giang nói.
Về vấn đề này, bà Nguyễn Thu Trang cho hay, trước đây có một số trường hợp buông lỏng thực thi bảo vệ môi trường gây ảnh hưởng nhiêm trọng, con sâu làm rầu nồi canh. Điều đó khiến cơ quan quản lý cũng như xã hội nhìn nhận dệt nhuộm làm ảnh hưởng môi trường nên phải từ chối các dự án này. Các địa phương, cơ quan quản lý nhà nước thấy không quản được thì không cho làm, khỏi phải quản. Đó là điều chúng ta rất không mong muốn.
Đại diện Trung tâm WTO nhận định, sai đâu xử đó, quan trọng nhất phải có sự phối hợp để giải quyết vấn đề môi trường trong dệt may, dệt nhuộm. "Thế giới thay đổi rồi, công nghệ khác rồi, nếu nhìn công nghệ những năm 80-90 để nhìn cho ngành dệt nhuộm bây giờ thì không còn phù hợp nữa", bà Trang chia sẻ.
Việt Nam phải có chuỗi cung ứng bền vững
Ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) phân tích, nếu chỉ đơn thuần nhìn vào hiệp định EVFTA nghe thấy thuế về 0% nói là cơ hội lớn bởi vì thuế quan với tất cả hàng dệt may sẽ được đưa về 0%, trong đó 77% về 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Trong khi đó, EU là thị trường đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may và EU cũng là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của hàng dệt may Việt Nam.
Nhưng theo ông Lương Hoàng Thái, những người làm lâu về thương mại có thể thấy EVFTA với những yêu cầu mạnh mẽ về cải cách có thể tạo ra những thách thức lớn cho ngành truyền thống như dệt may.
Trước đây, ngành dệt may Việt Nam phát triển theo bề rộng, dựa vào nguồn lao động giá rẻ. Nhưng đây là ngành có sự cạnh tranh rất lớn trên quy mô toàn cầu. Nếu một nhà đầu tư vào Việt Nam gặp phải chi phí tăng lên, không có chuỗi cung ứng bền vững thì họ có thể di chuyển sang nước khác.
Theo ông Thái, Việt Nam phải tạo lập được chuỗi cung ứng mang tính ổn định, lâu dài để ngăn tình trạng nhà đầu tư di chuyển cơ sở sản xuất sang quốc gia khác. Điều này cũng góp phần mang lại giá trị gia tăng cao hơn cho hàng dệt may Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Thu Trang nhận định, EU là thị trường cực kỳ lớn và hấp dẫn. Năm 2018 dệt may Việt Nam xuất khẩu sang châu Âu là 5,6 tỷ USD. Đó là con số rất lớn nhưng cũng chỉ chiếm 2,02% tổng lượng nhập khẩu hàng dệt may của châu Âu. Điều đó cho thấy dư địa của thị trường châu Âu là rất lớn.
Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam cho hiết: Năm nay chúng tôi đặt ra mục tiêu xuất khẩu 40 tỷ USD hàng dệt may Việt Nam. Trong đó, thị trường lớn nhất là Mỹ chiếm 42% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của dệt may Việt Nam. Đứng thứ hai là thị trường EU, khả năng chiếm 21,5% so với mục tiêu đặt ra là 20%.
"EU vẫn là thị trường có tính chiến lược trọng điểm, lâu dài, vì các đơn hàng dệt may của EU là dòng hàng có giá trị gia tăng cao hơn các thị trường khác", ông Vũ Đức Giang chia sẻ.
Cạnh tranh ngày càng khốc liệt
Ông Vũ Đức Giang đánh giá, ngành dệt may Việt Nam đang bước vào thời kỳ cạnh tranh rất khốc liệt, với Trung quốc, Campuchia, Myanmar, Bangladesh, Ấn Độ…
"Cạnh tranh cực kỳ khắc nghiệt, trong đó có vấn đề liên quan giá sản phẩm. Việt Nam đang đứng thứ ba sau Trung Quốc, Ấn Độ, nhưng một số nước đang bám đuổi sát sao phía sau. Cho nên nếu Việt Nam không đặt ra một chiến lược tốt, thì sẽ khó tiếp cận thị trường EU", Chủ tịch Hiệp hội dệt may chia sẻ.
Riêng về lao động, ông Giang cho biết hiện ngành dệt may có 3 triệu lao động, trong khi có 7.000 doanh nghiệp. Lương ngành dệt may đang tăng lên đáng kể.
"Lương ngành dệt may không còn thấp 350 - 400 USD/người rồi, không còn lao động giá rẻ nữa. Trong khi đó, Myanmar, Bangladesh, Campuchia nhân công vẫn chỉ khoảng 250 USD/người. Các loại thuế, phí, bảo hiểm, công toàn cũng rất áp lực. Thêm vào đó, các trường đại học, dạy nghề ngành dệt may rất ít", ông Giang cho biết Chính phủ chưa có quy hoạch vùng cho nên có hiện tượng cạnh tranh lao động gắt gao giữa các địa phương, gây bất ổn định cho doanh nghiệp.