Cho dù kinh tế tư nhân được xác định là động lực tăng trưởng
của đất nước, song vẫn còn nhiều câu hỏi về con đường phía trước của khu vực
kinh tế này.
“Vì sao kinh tế tư nhân ở Việt Nam chưa phát triển mạnh? Môi
trường kinh doanh hay thuế khóa, hay ở khâu đối xử? Nhà nước phải làm gì để
kinh tế tư nhân phát triển tốt và bản thân doanh nghiệp phải làm gì để xứng
đáng với vai trò là động lực cho sự phát triển?...”, đó là một loạt câu hỏi “đi
thẳng vào vấn đề” của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại buổi toạ đàm được
xem là “chưa có tiền lệ” với 14 tập đoàn kinh tế tư nhân diễn ra vào cuối tháng
9/2017.
Chưa có lực lượng doanh nghiệp tư nhân
Được xác định là động lực của tăng trưởng kinh tế nhưng tới
thời điểm này, khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam vẫn bị “gắn mác” chưa đủ lớn,
chưa phát triển... cho dù đã có một khoảng thời gian phát triển khá dài. Thậm
chí theo ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, với lực lượng
gần 500.000 doanh nghiệp đang hoạt động hiện nay chưa đủ để làm nên lực lượng
doanh nghiệp của Việt Nam. “Nhận diện doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, rất tiếc
là chúng ta chưa có lực lượng doanh nghiệp”, ông Thiên chia sẻ.
Nếu đi tìm những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn hiện nay của
Việt Nam thì số lượng vẫn chỉ là đếm trên đầu ngón tay, chỉ có một vài cái tên
gây chú ý như Vingroup, Hòa Phát, TH True Milk, Hoa Sen... Xem xét lịch sử hoạt
động của các tập đoàn này có thể thấy, Vingroup khởi đầu tập trung làm bất động
sản, tiếp đó, mới lấn dần sang các ngành nghề khác, dịch vụ thương mại bán lẻ,
giáo dục, y tế, đầu tư vào ngành hàng nông sản...; từ đó, tạo nên vóc dáng tập
đoàn kinh tế đa ngành. Hoà Phát bắt đầu bằng thép nhưng cũng lớn dần lên nhờ bất
động sản. Trường hợp của TH True Milk thì hơi khác một chút, đó là từ ngân hàng
mở sang ngành sữa với toàn bộ hoạt động khép kín từ chăn nuôi bò, tới chế biến
và phân phối sữa.
Theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, bên cạnh những mặt
tích cực, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực
phi sản xuất, trong đó, một bộ phận không nhỏ đầu tư vào lĩnh vực bất động sản,
dịch vụ. Hơn nữa, các doanh nghiệp tư nhân có tầm cỡ ở Việt Nam cũng không giống
các tập đoàn trên thế giới, quy mô vẫn còn khá nhỏ, nhất là trình độ kỹ nghệ,
công nghệ và quản trị còn cách xa các nước trong khu vực cũng như thế giới.
Trong khi những tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, có
thể vươn tầm khu vực và thế giới của Việt Nam vẫn còn khá ít ỏi thì đại bộ phận
doanh nghiệp còn lại của Việt Nam vẫn còn ở mức độ nhỏ và vừa, thậm chí là siêu
nhỏ. Mặc dù có hạn chế về công nghệ, về quy mô nhưng theo ông Lê Duy Thành, Phó
Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc, các doanh nghiệp của Việt Nam còn cạnh tranh
không lành mạnh với nhau gây ra hình ảnh xấu trong mắt các nhà đầu tư nước
ngoài.
Cũng chính bởi vậy, trong suốt 30 năm thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chỉ đứng “ngoài hàng rào” các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) do không thể liên kết được với các doanh
nghiệp này. Nếu loại trừ các yếu tố như các doanh nghiệp FDI thường “kéo” doanh
nghiệp phụ trợ sang quốc gia nhận đầu tư hay yếu tố “bí quyết, công nghệ”...
thì năng lực cạnh tranh yếu kém, không đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư nước
ngoài đang là thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam.
Vị đại diện đến từ Viện Kinh tế Việt Nam thẳng thắn chỉ rõ
lý do khiến ông không thấy Việt Nam có lực lượng doanh nghiệp là bởi ông không
nhìn thấy tính liên kết, thậm chí là nhu cầu liên kết của các doanh nghiệp Việt
Nam. “Đây chính là hệ quả của môi trường kinh doanh xin-cho kéo dài và hệ thống
khuyến khích không thúc đẩy liên kết”, ông Thiên nhận định.
Cần những đột phá môi trường kinh doanh
Cũng giống như ông Thiên, ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM-Bộ Kế hoạch và Đầu tư) nhận định,
“Thể chế thế nào, doanh nghiệp thế ấy”, nên mới có chuyện doanh nghiệp không
phát triển.
“Khi môi trường kinh doanh không thúc đẩy cạnh tranh, thì
không thể tạo ra liên kết. Chúng ta không có chuỗi, có mạng lưới liên kết doanh
nghiệp thì không thể tạo nên lực lượng doanh nghiệp. Hiện tại, nền kinh tế cũng
đang thiếu cả trụ cột là các doanh nghiệp tư nhân lớn”, ông Cung bày tỏ.
Trong những năm gần đây, các tập đoàn kinh tế tư nhân bắt đầu
đóng vai trò đầu tàu trong việc liên kết, tạo ra chuỗi sản xuất cho dù quy mô
còn hạn chế. Chẳng hạn như việc Vingroup bước đầu bắt tay với hàng trăm doanh
nghiệp để cung cấp hàng hoá của Việt Nam trên hệ thống VinMart. Hay việc VinEco
kết hợp với các hộ nông dân để sản xuất và phân phối nông sản sạch trên thị trường...
Vì vậy, chuỗi liên kết, chuỗi sản xuất trên thị trường vẫn mới dần được định
hình.
Cách đây hơn chục năm, câu chuyện liên kết đã được nhắc đến
nhiều nhưng đến giờ liên kết giữa doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp Việt
Nam hay thậm chí là doanh nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp FDI vẫn gần như bằng
không. Chỉ có một vài doanh nghiệp có quy mô lớn là tham gia vào chuỗi của các
tập đoàn đa quốc gia đã đầu tư vào Việt Nam, chứ chưa nói đến các doanh nghiệp
nhỏ và vừa, các hộ kinh doanh. Thậm chí, hiện trạng doanh nghiệp không muốn lớn
vì ngại chính sách, ngại cơ quan quản lý đang là thực tế đáng báo động.
Theo ông Cung, mấu chốt là do nguồn lực vẫn đang được phân bổ
theo cơ chế xin - cho, thiếu cạnh tranh. Hiện chính sách về cạnh tranh đang tạo
ra nhiều rào cản kinh doanh và hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân. Vì
vậy, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã kiến nghị bãi bỏ gần 2.000 điều kiện trong hơn
4.000 điều kiện kinh doanh nhằm “cởi trói” cho khu vực tư nhân phát triển trong
bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
Đáng chú ý, trong một diễn biến mới đây, sau kiến nghị của Bộ
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương là bộ đầu tiên đứng lên tuyên bố sẽ “trảm”
675 điều kiện kinh doanh bất hợp ý nhằm trả lại sự thuận lợi cho môi trường
kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Tiếp theo thông điệp từ
Bộ Công Thương, cộng đồng doanh nghiệp đang kỳ vọng những bước đi mạnh mẽ của
các bộ, ngành khác nhằm hướng tới sự đột phá trong môi trường kinh doanh.
Tuy nhiên, theo ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế, Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), với một nền kinh tế “nghiện” quản lý
như hiện nay thì việc từ bỏ quyền lợi là điều không hề dễ dàng. Vấn đề, đáng
quan ngại hơn, theo ông Tuấn, đó là trước sức ép dư luận, các bộ tuyên bố cắt
giảm hàng loạt điều kiện kinh doanh nhưng sau đó, các điều kiện này sẽ “núp
bóng” quy định chuyên ngành để lồng ghép vào các văn bản quy định pháp luật. Vì
vậy, bài toán đang được đặt ra lúc này với các nhà hoạch định chính sách là làm
thế nào để thực sự tạo một môi trường kinh doanh thông thoáng, tạo một không
gian để khu vực tư nhân phát triển mạnh hơn, nhanh hơn và thực chất hơn.
Một triệu doanh nghiệp: Khó nhưng vẫn có thể
Theo ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI, chưa bao giờ thông điệp,
chủ trương dồn dập về Chính phủ kiến tạo, liêm chính, mạnh mẽ như bây giờ. Ở
các cấp, bộ, ngành đều nói về doanh nghiệp. Chưa bao giờ sự đồng thuận trong xã
hội về doanh nghiệp và cách nhìn nhận, đánh giá của chính quyền về doanh nghiệp,
doanh nhân rõ như hiện nay.
Trong thời gian qua, ngoài cải thiện môi trường kinh doanh,
cơ chế, chính sách, chỉ đạo của Chính phủ có chuyển biến. Quyết tâm ấy được thể
hiện trong các Nghị quyết 19/CP, Nghị quyết 35/CP đã đề ra mục tiêu, lộ trình
thực hiện cải cách và hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp rõ ràng và định lượng hoá được
thời gian. Vì vậy, mục tiêu có 1 triệu doanh nghiệp, hoạt động hiệu quả vào
2020 dù đầy thách thức nhưng có thể làm được nếu chính sách được tháo gỡ, ông Lộc
nhận định.
Còn theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, để xây dựng được
một thương hiệu lớn, vai trò của doanh nhân, những người đứng đầu doanh nghiệp
có ý nghĩa rất quan trọng. Họ cần phải có ý tưởng, có chiến lược kinh doanh lâu
dài, am hiểu luật pháp, chấp nhận dấn thân, chấp nhận thất bại và chấp nhận cạnh
tranh. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ với các nền kinh
tế khu vực và thế giới, đội ngũ doanh nhân Việt Nam muốn lớn mạnh được, bên cạnh
việc am hiểu luật pháp, ngôn ngữ toàn cầu, doanh nhân Việt Nam cần có tinh thần
hợp tác, tinh thần đấu tranh trong bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.
Hợp tác ở đây không chỉ giới hạn với những đối tác nước ngoài đến từ các quốc
gia trong khu vực và thế giới, mà còn phải hợp tác với cả chính các doanh nghiệp
trong cùng lãnh thổ, tạo thành những doanh nghiệp lớn mạnh cả về tiềm lực kinh
tế lẫn quy mô. Có như vậy, mới cạnh tranh được với những tập đoàn nước ngoài và
vươn ra sân chơi toàn cầu.