Tái cơ cấu với lõi đặc trưng ngân hàng Việt
Nguồn tiền hàng nghìn, hàng chục nghìn tỷ giao dịch của một số cổ đông cá nhân ngân hàng gần đây đến từ đâu?
Sau mùa đại hội đồng cổ đông ngân hàng 2018, một chuyên gia hỏi phóng viên VnEconomy: "Qua nhiều kỳ đại hội đồng cổ đông, theo bạn có điều gì vẫn không mấy thay đổi, cũng như trong quá trình tái cơ cấu hệ thống?".
Không phải chỉ trong giai đoạn tái cơ cấu từ 2011 đến nay, mà hàng chục năm qua lõi cổ đông tại nhiều ngân hàng thương mại vẫn không mấy thay đổi, gần như không có tái cơ cấu.
"Nguồn vốn Thánh Gióng"
Quanh mùa đại hội năm nay, thị trường choáng ngợp với những giao dịch ngoài sàn của một số cổ đông cá nhân với quy mô hàng nghìn tỷ đồng, thậm chí hàng chục nghìn tỷ đồng.
Nguồn tiền lớn đó từ đâu, những nguồn lực cổ đông mạnh như thế nào?
Theo chuyên gia trên, lõi cổ đông và nguồn tiền vẫn là một trong những điểm quan trọng nhất của tái cơ cấu hệ thống các ngân hàng thương mại những năm qua và hiện nay.
"Nhưng tôi thấy, tại nhiều ngân hàng thương mại, cơ cấu cổ đông lớn và chi phối vẫn vậy. Vẫn những cá nhân đó, những ông chủ, bà chủ đó. Vậy nên xem xét vấn đề tái cơ cấu cổ đông như thế nào, thay vì chỉ chủ yếu về tình hình tài chính, cơ cấu hoạt động, vấn đề nợ xấu… thời gian qua?", chuyên gia trên đặt vấn đề.
Cũng theo vị chuyên gia này, suốt từ năm 2011 bắt đầu triển khai tái cơ cấu đến nay, rất ít cổ đông lớn và mới, có thực lực tài chính mạnh và nhiều kinh nghiệm, tham gia và thành công.
Còn ở khía cạnh khác, lõi cổ đông ngân hàng lại có nhiều thay đổi những năm gần đây, nhưng chủ yếu theo tình huống bắt buộc.
Đó là loạt các tập đoàn và tổng công ty Nhà nước phải thoái vốn ngoài ngành tại ngân hàng; thay đổi chủ sở hữu do bị Ngân hàng Nhà nước mua lại bắt buộc; các thành viên phải sáp nhập hoặc hợp nhất để tồn tại; trường hợp ông chủ chuyển ghế sang ngân hàng khác và thay tên chủ sở hữu cổ phần; trường hợp vì đáp ứng yêu cầu của Luật Các tổ chức tín dụng phải né đi hoặc truyền nối…
Còn tại nhiều thành viên, cơ cấu cổ đông lớn vẫn giữ nguyên hàng chục năm qua, chủ yếu xoay quanh yếu tố các cá nhân và những người có liên quan.
Trải qua nhiều thăng trầm, thử thách, cơ cấu lõi đó vẫn trụ vững. Ở khía cạnh tích cực, nó tích lũy kinh nghiệm và nền tảng để tiếp tục chèo lái các con thuyền tiến tiếp. Nhưng ở khía cạnh năng lực tài chính, quá trình tái cơ cấu hệ thống có soi được vào lõi này và tiếp tục bền vững lâu dài, nhất là trước yêu cầu tiếp tục tăng trưởng và lớn mạnh.
Bởi lẽ, nguồn vốn cổ đông lõi tham gia vào ngân hàng suốt hàng chục năm qua có từ đâu, làm sao để đáp ứng được một "quá trình Thánh Gióng"?
Gần hai chục năm trước, Việt Nam bắt đầu bùng nổ ngân hàng. Bên cạnh những thành viên lập mới, một loạt ngân hàng nông thôn chuyển đổi lên ngân hàng đô thị. Quy mô vốn ban đầu chủ yếu chỉ quanh 500 tỷ đồng, rồi phải mất một giai đoạn chật vật mới đáp ứng được vốn pháp định 3.000 tỷ đồng.
Đến nay, hầu hết các thành viên đều có quy mô vốn gấp cả chục lần, hàng chục lần. Vẫn lõi cổ đông cũ, nhưng quy mô nguồn tiền tham gia tăng vốn đã rất lớn, mà chủ yếu lại gắn với các cá nhân.
"Từ những ông chủ, bà chủ có tiềm lực góp vài chục đến vài trăm tỷ, đến nay họ và những người liên quan góp và sở hữu hàng ngàn tỷ. Tái cơ cấu hệ thống có xét đến nguồn gốc và chất lượng nguồn vốn đó, nếu thiếu bền vững hoặc có vấn đề thì nay có tái cơ cấu được nó không?", chuyên gia trên đặt vấn đề.
Đặc thù Việt Nam
Cùng nhìn nhận điểm không nhiều thay đổi qua quá trình tái cơ cấu là cơ cấu cổ đông lớn các ngân hàng, giảng viên một trường đại học kinh tế chia sẻ với VnEconomy quan sát và so sánh thú vị, mà ông xem như đặc thù của Việt Nam vậy.
"Trên thế giới, khi nói đến Facebook thì người ta nói đến Mark Zuckerberg, nói Alibaba thì của Jack Ma, Apple thì nhắc đến Steve Jobs, Microsoft thì gắn với Bill Gates… Thế nhưng, tuyệt nhiên khi nói đến Citibank, HSBC, ANZ, Standard Chartered… thì không gắn với tên tuổi cá nhân nào cả, mà chúng định hình độc lập là các định chế, các ngân hàng lớn; công chúng cũng không mấy để ý nó là của cá nhân nào, của nhóm cổ đông nào. Ngân hàng rất đặc thù như vậy", vị giảng viên trên đặt vấn đề.
Nhưng tại Việt Nam, cũng theo quan sát trên, khi nói đến ngân hàng A thì người ta nghĩ ngay nó thuộc bà chủ này, hay của ông chủ kia. Những cái tên cá nhân sở hữu, chi phối và sức ảnh hưởng gắn liền với những ngân hàng thương mại khi được nhắc đến, dù đó là công ty đại chúng.
Quá trình tái cơ cấu đã soi vào ảnh hưởng của những ông chủ, bà chủ đó đối với hoạt động ngân hàng như thế nào, đang thúc đẩy hay kìm hãm hoặc có tiềm ẩn rủi ro không; những nhân vật đó có các công ty sân sau hay không, nếu có thì tích cực hay tiêu cực; họ có lấn át và tiềm ẩn rủi ro đối với các cổ đông nhỏ lẻ hay không?
Và khi rà soát trả lời được những câu hỏi trên, nếu yêu cầu tái cơ cấu lõi cổ đông đặt ra thì có làm được hay không?
Tổng quan hơn, liệu có một tương lai nào đó, tại Việt Nam, tương tự như trên thế giới, khi nói về ngân hàng A thì người ta sẽ không còn đặc thù liên tưởng ngay đến ông chủ hay bà chủ nào đó nữa?