“Phát triển công nghiệp Việt Nam mang hình hài quả mít”
Nhiều ý kiến phản biện từ các chuyên gia trong và ngoài nước về thực trạng ngành công nghiệp Việt Nam cùng những khuyến cáo đáng lưu ý
“Chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam trong thời gian vừa qua mang hình hài của quả mít, rất nhiều mũi nhọn như nhau nên không biết được đâu là ưu tiên, đâu là đột phá. Điều này đã đến lúc cần phải thay đổi”.
Nhìn nhận mang tính ví von trên được Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội - TS.Nguyễn Đức Kiên đưa ra tại hội thảo “Chính sách công nghiệp quốc gia của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035” do Ban Kinh tế Trung ương và Bộ Công Thương tổ chức ngày 10/3.
Quá nhiều hạn chế của công nghiệp
Phát biểu tại hội thảo, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình cho rằng, chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt coi trong qua các thời kỳ, thể hiện qua hàng trăm cơ chế, chính sách, chỉ đạo của các cấp đối với chính sách công nghiệp quốc gia.
Thành quả của những nỗ lực đó cũng đáng ghi nhận, trong đó đáng kể nhất là giá trị sản xuất công nghiệp và giá trị gia tăng công nghiệp tăng trưởng liên tục trong nhiều năm.
Cụ thể, trong 10 năm qua, tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng 3,42 lần. Tỷ trọng GDP công nghiệp cũng duy trì ổn định khoảng 31-32%/tổng GDP của cả nước. Tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp tăng nhanh hơn nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới. Trong nhiều năm, lĩnh vực công nghiệp có tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình phát triển công nghiệp của Việt Nam cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, điển hình như công nghiệp vẫn ở trình độ thấp, chủ yếu đang phát triển theo chiều rộng, nội lực còn yếu, phụ thuộc nhiều doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); tăng trưởng sản xuất công nghiệp chưa cao, thiếu bền vững. Năng suất lao động công nghiệp, nhất là ngành công nghiệp chế biến - chế tạo còn ở mức thấp.
Tốc độ tăng năng suất lao động của ngành công nghiệp giai đoạn 2006-2015 khoảng 2,4%/ năm, tốc độ tăng chậm hơn tốc độ tăng bình quân chung của nền kinh tế là 3,9%. So với các quốc gia trong khu vực, năng suất lao động công nghiệp của Việt Nam, nhất là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo còn khá thấp.
Nếu so với Malaysia có mức năng suất lao động ngành chế biến chế tạo cao gấp 6,4 lần, Thái Lan cao gấp 6,4 lần, Philippines cao gấp 3,6 lần.
Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng ngành công nghiệp vẫn còn khá thấp, gia tăng vốn và lao động vẫn đóng góp chủ yếu, đóng góp của yếu tố công nghệ đối với tăng năng suất của ngành chế biến, chế tạo chỉ chiếm khoảng 11,1%.
Theo Trưởng ban Kinh tế Trung ương, những yếu kém, hạn chế nêu trên có nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Không thiếu chính sách
GS.David Dapice, Đại học Havard (Mỹ) cho rằng, trong vòng 10 năm tới, Việt Nam cần thay đổi những gì để tăng năng suất, bởi hiện giá trị gia tăng vẫn rất thấp trong nhiều ngành xuất khẩu sản xuất. Hầu hết phụ kiện phải nhập khẩu và thậm chí sau một thập kỷ cũng hiếm có công ty sản xuất phụ tùng nhỏ nào của Việt Nam có triển vọng tăng trưởng tại Trung Quốc, Hàn Quốc…
“Cần phải giảm các khoản chi, nhất là các chi phí không chính thức là một vấn đề không chỉ giải quyết vấn đề tăng trưởng chậm hay nhanh mà còn là vì sự ổn định xã hội và chính trị”, GS.David Dapice nói.
Trong khi đó, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cho rằng, công nghiệp Việt Nam cần một hệ thống chính sách đồng bộ và hiệu quả, bởi thực tiễn cho thấy, chúng ta không thiếu chính sách. Nhưng dường như, ngoài một số ít chính sách có hiệu quả, có tác động tạo sự đột phá, thì còn nhiều chính sách được ban hành còn chưa kịp thời và ít tác dụng.
TS.Vũ Thành Tự Anh, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Việt Nam, cho rằng Việt Nam không nên theo đuổi chính sách ưu tiên một số sản phẩm công nghiệp cá biệt như hiện nay. Thay vào đó, Chính phủ nên thực thi chính sách ưu tiên phát triển một số lĩnh vực năng lực phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển dài hạn của đất nước.
Còn theo GS.Trần Văn Thọ, Đại học Waseda (Nhật Bản), cho rằng Việt Nam đang được xếp vào thế hệ nước công nghiệp hoá thứ 6 song lại chưa tận dụng được lợi thế của người đi sau, trong đó nguyên nhân chủ yếu dẫn đến suy giảm nội lực của nền kinh tế xuất là năng lực quản trị Nhà nước, chính sách chậm cải thiện, không được thực thi đầy đủ...
Ở những quốc gia đã phát triển công nghiệp thành công như Nhật Bản, Hàn Quốc...thì thời kỳ hậu công nghiệp hóa chỉ đến khi thu nhập bình quân GDP/người đạt ngưỡng 30.000 USD. Trong khi đó Việt Nam mới chỉ có mức GDP/người 3.000 USD song đã ngấp nghé rơi vào nhóm “hậu công nghiệp hoá đến sớm”.
Dẫn chứng kinh nghiệm của Nhật Bản, ông Thọ cho hay 8/10 người giàu tại đây thành công nhờ đầu tư vào sản xuất công nghiệp, chứ không chỉ dựa vào bất động sản.
Trong khi đó, ở Việt Nam, xu hướng này lại đang diễn ra ngược lại. Bất động sản luôn nằm trong những lĩnh vực thu hút nhiều nhất nguồn lực đầu tư trong, ngoài nước gần chục năm qua.
“Nếu chỉ có bất động sản, thương mại không thôi thì Việt Nam không thể có ngành công nghiệp thành công như mong muốn. Một quốc gia sắp đạt ngưỡng 100 triệu dân thì không còn cách nào khác, Việt Nam phải đẩy mạnh công nghiệp hoá theo chiều rộng và chiều sâu để cưỡng lại quá trình hậu công nghiệp hoá đang tới quá sớm”, GS. Thọ nói.
Chuyên gia này cũng khuyến nghị, Việt Nam cần tận dụng quốc gia có 100 triệu dân là sức mạnh lớn để đẩy mạnh công nghiệp hóa cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong đó cần tập trung đào tạo nhân lực công nghệ cao, thích ứng thay đổi công nghệ. Tuy nhiên, đừng chú trọng bậc học, bằng cấp. Đừng để xảy ra tình trạng đổ xô vào học đại học nhưng lại chỉ biết về lý thuyết.
Nhìn nhận mang tính ví von trên được Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội - TS.Nguyễn Đức Kiên đưa ra tại hội thảo “Chính sách công nghiệp quốc gia của Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035” do Ban Kinh tế Trung ương và Bộ Công Thương tổ chức ngày 10/3.
Quá nhiều hạn chế của công nghiệp
Phát biểu tại hội thảo, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình cho rằng, chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt coi trong qua các thời kỳ, thể hiện qua hàng trăm cơ chế, chính sách, chỉ đạo của các cấp đối với chính sách công nghiệp quốc gia.
Thành quả của những nỗ lực đó cũng đáng ghi nhận, trong đó đáng kể nhất là giá trị sản xuất công nghiệp và giá trị gia tăng công nghiệp tăng trưởng liên tục trong nhiều năm.
Cụ thể, trong 10 năm qua, tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng 3,42 lần. Tỷ trọng GDP công nghiệp cũng duy trì ổn định khoảng 31-32%/tổng GDP của cả nước. Tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp tăng nhanh hơn nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới. Trong nhiều năm, lĩnh vực công nghiệp có tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất cao nhất trong các ngành kinh tế quốc dân…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình phát triển công nghiệp của Việt Nam cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, điển hình như công nghiệp vẫn ở trình độ thấp, chủ yếu đang phát triển theo chiều rộng, nội lực còn yếu, phụ thuộc nhiều doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI); tăng trưởng sản xuất công nghiệp chưa cao, thiếu bền vững. Năng suất lao động công nghiệp, nhất là ngành công nghiệp chế biến - chế tạo còn ở mức thấp.
Tốc độ tăng năng suất lao động của ngành công nghiệp giai đoạn 2006-2015 khoảng 2,4%/ năm, tốc độ tăng chậm hơn tốc độ tăng bình quân chung của nền kinh tế là 3,9%. So với các quốc gia trong khu vực, năng suất lao động công nghiệp của Việt Nam, nhất là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo còn khá thấp.
Nếu so với Malaysia có mức năng suất lao động ngành chế biến chế tạo cao gấp 6,4 lần, Thái Lan cao gấp 6,4 lần, Philippines cao gấp 3,6 lần.
Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng ngành công nghiệp vẫn còn khá thấp, gia tăng vốn và lao động vẫn đóng góp chủ yếu, đóng góp của yếu tố công nghệ đối với tăng năng suất của ngành chế biến, chế tạo chỉ chiếm khoảng 11,1%.
Theo Trưởng ban Kinh tế Trung ương, những yếu kém, hạn chế nêu trên có nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Không thiếu chính sách
GS.David Dapice, Đại học Havard (Mỹ) cho rằng, trong vòng 10 năm tới, Việt Nam cần thay đổi những gì để tăng năng suất, bởi hiện giá trị gia tăng vẫn rất thấp trong nhiều ngành xuất khẩu sản xuất. Hầu hết phụ kiện phải nhập khẩu và thậm chí sau một thập kỷ cũng hiếm có công ty sản xuất phụ tùng nhỏ nào của Việt Nam có triển vọng tăng trưởng tại Trung Quốc, Hàn Quốc…
“Cần phải giảm các khoản chi, nhất là các chi phí không chính thức là một vấn đề không chỉ giải quyết vấn đề tăng trưởng chậm hay nhanh mà còn là vì sự ổn định xã hội và chính trị”, GS.David Dapice nói.
Trong khi đó, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cho rằng, công nghiệp Việt Nam cần một hệ thống chính sách đồng bộ và hiệu quả, bởi thực tiễn cho thấy, chúng ta không thiếu chính sách. Nhưng dường như, ngoài một số ít chính sách có hiệu quả, có tác động tạo sự đột phá, thì còn nhiều chính sách được ban hành còn chưa kịp thời và ít tác dụng.
TS.Vũ Thành Tự Anh, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Việt Nam, cho rằng Việt Nam không nên theo đuổi chính sách ưu tiên một số sản phẩm công nghiệp cá biệt như hiện nay. Thay vào đó, Chính phủ nên thực thi chính sách ưu tiên phát triển một số lĩnh vực năng lực phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển dài hạn của đất nước.
Còn theo GS.Trần Văn Thọ, Đại học Waseda (Nhật Bản), cho rằng Việt Nam đang được xếp vào thế hệ nước công nghiệp hoá thứ 6 song lại chưa tận dụng được lợi thế của người đi sau, trong đó nguyên nhân chủ yếu dẫn đến suy giảm nội lực của nền kinh tế xuất là năng lực quản trị Nhà nước, chính sách chậm cải thiện, không được thực thi đầy đủ...
Ở những quốc gia đã phát triển công nghiệp thành công như Nhật Bản, Hàn Quốc...thì thời kỳ hậu công nghiệp hóa chỉ đến khi thu nhập bình quân GDP/người đạt ngưỡng 30.000 USD. Trong khi đó Việt Nam mới chỉ có mức GDP/người 3.000 USD song đã ngấp nghé rơi vào nhóm “hậu công nghiệp hoá đến sớm”.
Dẫn chứng kinh nghiệm của Nhật Bản, ông Thọ cho hay 8/10 người giàu tại đây thành công nhờ đầu tư vào sản xuất công nghiệp, chứ không chỉ dựa vào bất động sản.
Trong khi đó, ở Việt Nam, xu hướng này lại đang diễn ra ngược lại. Bất động sản luôn nằm trong những lĩnh vực thu hút nhiều nhất nguồn lực đầu tư trong, ngoài nước gần chục năm qua.
“Nếu chỉ có bất động sản, thương mại không thôi thì Việt Nam không thể có ngành công nghiệp thành công như mong muốn. Một quốc gia sắp đạt ngưỡng 100 triệu dân thì không còn cách nào khác, Việt Nam phải đẩy mạnh công nghiệp hoá theo chiều rộng và chiều sâu để cưỡng lại quá trình hậu công nghiệp hoá đang tới quá sớm”, GS. Thọ nói.
Chuyên gia này cũng khuyến nghị, Việt Nam cần tận dụng quốc gia có 100 triệu dân là sức mạnh lớn để đẩy mạnh công nghiệp hóa cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong đó cần tập trung đào tạo nhân lực công nghệ cao, thích ứng thay đổi công nghệ. Tuy nhiên, đừng chú trọng bậc học, bằng cấp. Đừng để xảy ra tình trạng đổ xô vào học đại học nhưng lại chỉ biết về lý thuyết.