Vì sao vốn Nhật vào Việt Nam sụt mạnh?
Nhật Bản rút vốn ồ ạt khỏi Trung Quốc những năm gần đây, nhưng dòng vốn này không dồn vào Việt Nam
Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa có báo cáo đánh giá tình hình vốn đầu tư FDI vào Việt Nam, nhìn từ một số đối tác trọng điểm. Đáng chú ý, báo cáo đề cập nhiều đến việc dòng vốn Nhật đang có xu hướng sụt giảm mạnh tại Việt Nam.
Mất ngôi dẫn đầu
Theo thống kê, tính đến tháng 5/2016, đã có 114 quốc gia với khoảng 288,5 tỷ USD đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Nhật Bản là quốc gia đầu tư lớn thứ hai vào Việt Nam, với hơn 3.050 dự án còn hiệu lực. Tổng vốn đầu tư của nước này lên tới 39,2 tỷ USD, đứng thứ hai sau Hàn Quốc.
Tuy nhiên, đầu tư của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn của Nhật Bản tại Việt Nam đang có dấu hiệu chững lại.
Năm 2014, Nhật đã tụt xuống vị trí số 4 sau Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore. Đây cũng là vị trí thấp nhất của Nhật sau nhiều năm giữ vị trí quán quân hoặc đứng thứ hai.
Cụ thể, năm 2014, vốn FDI từ Nhật chỉ vào khoảng 2,05 tỷ USD, giảm mạnh so với mức 5,87 tỷ USD của năm 2013. Đến năm 2015, tổng vốn đầu tư tiếp tục sụt xuống mức 1,84 tỷ USD.
"Giá trị các dự án đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam đang giảm dần, chủ yếu là các dự án nhỏ", Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận định.
Luỹ kế đến tháng 6/2016, hình thức được các nhà đầu tư Nhật ưa chuộng nhất vẫn là 100% vốn nước ngoài. Các dự án tập trung chủ yếu vào công nghiệp chế biến, chế tạo với khoảng 1.526 dự án, vốn đầu tư đạt 32,8 tỷ USD - chiếm tới 82,5% tổng vốn.
Vốn Nhật phân bổ chủ yếu ở Thanh Hoá, Hà Nội, Tp.HCM, Bình Dương, Hải Phòng, Đồng Nai…
Theo thống kê, trong cùng khoảng thời gian này các doanh nghiệp Nhật Bản đã có sự chuyển dịch đầu tư mạnh mẽ cùng với việc rút vốn ồ ạt khỏi Trung Quốc. Tuy nhiên, nguồn vốn rút ra từ Trung Quốc năm 2015 chủ yếu được Nhật đầu tư vào Singapore, Indonesia, dẫn đến sụt giảm mạnh trong nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, trong mắt các nhà đầu tư Nhật Bản, môi trường kinh doanh Việt Nam còn nhiều hạn chế. Các chính sách thiếu đồng bộ, thủ tục hành chính còn quan liêu, chi phí thuế cao, tồn tại tham nhũng tại nhiều dự án liên quan đến ODA, chính sách tăng lương.
Cụ thể, có tới 60% doanh nghiệp Nhật đầu tư tại Việt Nam phàn nàn về chi phí lao động tăng nhanh, thủ tục hành chính phức tạp, các chính sách thiếu minh bạch… ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư kinh doanh của họ tại đây.
Một nguyên nhân khác được chỉ ra là có ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp Nhật đó là ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, làm cho tỷ lệ nội địa hoá tại Việt Nam thấp hơn so với các nước khác trong khu vực. Tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu, linh kiện chiếm 70% trong tổng chi phí sản xuất.
Chẳng hạn, ngành công nghiệp ôtô, công nghiệp phụ trợ và thị trường là hai yếu tố quan trọng nhất khi đầu tư. Tuy nhiên, theo khảo sát của các doanh nghiệp Nhật Bản, tỷ lệ nội địa hoá của Việt Nam mới đạt 32%, thấp hơn rất nhiều mức 64% tại Trung Quốc, 56% tại Thái Lan, 41% tại Indonesia…
Nhìn trong dài hạn
Mặc dù vốn sụt giảm mạnh, song Bộ Kế hoạch và Đầu tư vẫn nhận định, doanh nghiệp Nhật Bản có khả năng tăng đầu tư trong giai đoạn tới. Nguyên nhân được cho là các doanh nghiệp Nhật phải đối mặt với chi phí lao động ngày càng tăng cao cũng như việc giảm ưu đãi của Chính phủ Trung Quốc đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Điều này khiến các công ty Nhật thay đổi chiến lược bằng cách chuyển các khoản đầu tư trực tiếp hướng đến các nước ASEAN với thị trường lớn và nhân công giá rẻ như Việt Nam, Indonesia, Philippines, Myanmar…
"Môi trường các nước láng giềng ASEAN đang xấu đi, họ đang gặp phải các vấn đề như chủ nghĩa bảo hộ, chi phí nhân công tăng cao, kinh tế trì trệ, chính trị bất ổn… Trong tình hình đó. Việt Nam đang phát huy các ưu thế, cải thiện môi trường kinh doanh mạnh mẽ. Xu thế Trung Quốc+1 và Thái Lan +1 đang được đẩy mạnh hơn", báo cáo nêu.
"Nhật Bản có 4,7 triệu doanh nghiệp vừa và nhỏ, đang có xu hướng đầu tư mạnh ra nước ngoài, trong khi đó Việt Nam đang có nhu cầu phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ. Những tồn tại, hạn chế về môi trường kinh doanh, trình độ người lao động, là những điều mà Việt Nam phải khắc phục để nâng cao hiệu quả thu hút vốn từ Nhật", báo cáo nêu.
Theo nhận định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thời gian tới một số lĩnh vực mà các nhà đầu tư Nhật quan tâm có thể là ngành dược phẩm, hoá chất, sản xuất thép và kim loại, máy móc chung và máy móc điện tử, thiết bị ngành giao thông, bán buôn và bán lẻ, tài chính và bảo hiểm, bất động sản, dịch vụ… Riêng nông nghiệp cũng là ngành có nhiều tiềm năng do Nhật Bản là quốc gia có nền nông nghiệp công nghệ cao phát triển.
"Yếu tố Nhật Bản" đang thâm nhập dần vào cuộc sống của người dân Việt Nam. Tại Tp.HCM có 10.000 người Nhật, trên 500 nhà hàng, 140 cửa hàng tiện ích Nhật Bản. Số hội viên của Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản ở Tp.HCM là 834, ở Hà Nội là 634, Đà Nẵng là 94. Tiếng Nhật đã được giảng dạy thí điểm ở một số trường tiểu học…
Mất ngôi dẫn đầu
Theo thống kê, tính đến tháng 5/2016, đã có 114 quốc gia với khoảng 288,5 tỷ USD đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Nhật Bản là quốc gia đầu tư lớn thứ hai vào Việt Nam, với hơn 3.050 dự án còn hiệu lực. Tổng vốn đầu tư của nước này lên tới 39,2 tỷ USD, đứng thứ hai sau Hàn Quốc.
Tuy nhiên, đầu tư của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn của Nhật Bản tại Việt Nam đang có dấu hiệu chững lại.
Năm 2014, Nhật đã tụt xuống vị trí số 4 sau Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore. Đây cũng là vị trí thấp nhất của Nhật sau nhiều năm giữ vị trí quán quân hoặc đứng thứ hai.
Cụ thể, năm 2014, vốn FDI từ Nhật chỉ vào khoảng 2,05 tỷ USD, giảm mạnh so với mức 5,87 tỷ USD của năm 2013. Đến năm 2015, tổng vốn đầu tư tiếp tục sụt xuống mức 1,84 tỷ USD.
"Giá trị các dự án đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam đang giảm dần, chủ yếu là các dự án nhỏ", Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhận định.
Luỹ kế đến tháng 6/2016, hình thức được các nhà đầu tư Nhật ưa chuộng nhất vẫn là 100% vốn nước ngoài. Các dự án tập trung chủ yếu vào công nghiệp chế biến, chế tạo với khoảng 1.526 dự án, vốn đầu tư đạt 32,8 tỷ USD - chiếm tới 82,5% tổng vốn.
Vốn Nhật phân bổ chủ yếu ở Thanh Hoá, Hà Nội, Tp.HCM, Bình Dương, Hải Phòng, Đồng Nai…
Theo thống kê, trong cùng khoảng thời gian này các doanh nghiệp Nhật Bản đã có sự chuyển dịch đầu tư mạnh mẽ cùng với việc rút vốn ồ ạt khỏi Trung Quốc. Tuy nhiên, nguồn vốn rút ra từ Trung Quốc năm 2015 chủ yếu được Nhật đầu tư vào Singapore, Indonesia, dẫn đến sụt giảm mạnh trong nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, trong mắt các nhà đầu tư Nhật Bản, môi trường kinh doanh Việt Nam còn nhiều hạn chế. Các chính sách thiếu đồng bộ, thủ tục hành chính còn quan liêu, chi phí thuế cao, tồn tại tham nhũng tại nhiều dự án liên quan đến ODA, chính sách tăng lương.
Cụ thể, có tới 60% doanh nghiệp Nhật đầu tư tại Việt Nam phàn nàn về chi phí lao động tăng nhanh, thủ tục hành chính phức tạp, các chính sách thiếu minh bạch… ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư kinh doanh của họ tại đây.
Một nguyên nhân khác được chỉ ra là có ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp Nhật đó là ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, làm cho tỷ lệ nội địa hoá tại Việt Nam thấp hơn so với các nước khác trong khu vực. Tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu, linh kiện chiếm 70% trong tổng chi phí sản xuất.
Chẳng hạn, ngành công nghiệp ôtô, công nghiệp phụ trợ và thị trường là hai yếu tố quan trọng nhất khi đầu tư. Tuy nhiên, theo khảo sát của các doanh nghiệp Nhật Bản, tỷ lệ nội địa hoá của Việt Nam mới đạt 32%, thấp hơn rất nhiều mức 64% tại Trung Quốc, 56% tại Thái Lan, 41% tại Indonesia…
Nhìn trong dài hạn
Mặc dù vốn sụt giảm mạnh, song Bộ Kế hoạch và Đầu tư vẫn nhận định, doanh nghiệp Nhật Bản có khả năng tăng đầu tư trong giai đoạn tới. Nguyên nhân được cho là các doanh nghiệp Nhật phải đối mặt với chi phí lao động ngày càng tăng cao cũng như việc giảm ưu đãi của Chính phủ Trung Quốc đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Điều này khiến các công ty Nhật thay đổi chiến lược bằng cách chuyển các khoản đầu tư trực tiếp hướng đến các nước ASEAN với thị trường lớn và nhân công giá rẻ như Việt Nam, Indonesia, Philippines, Myanmar…
"Môi trường các nước láng giềng ASEAN đang xấu đi, họ đang gặp phải các vấn đề như chủ nghĩa bảo hộ, chi phí nhân công tăng cao, kinh tế trì trệ, chính trị bất ổn… Trong tình hình đó. Việt Nam đang phát huy các ưu thế, cải thiện môi trường kinh doanh mạnh mẽ. Xu thế Trung Quốc+1 và Thái Lan +1 đang được đẩy mạnh hơn", báo cáo nêu.
"Nhật Bản có 4,7 triệu doanh nghiệp vừa và nhỏ, đang có xu hướng đầu tư mạnh ra nước ngoài, trong khi đó Việt Nam đang có nhu cầu phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ. Những tồn tại, hạn chế về môi trường kinh doanh, trình độ người lao động, là những điều mà Việt Nam phải khắc phục để nâng cao hiệu quả thu hút vốn từ Nhật", báo cáo nêu.
Theo nhận định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thời gian tới một số lĩnh vực mà các nhà đầu tư Nhật quan tâm có thể là ngành dược phẩm, hoá chất, sản xuất thép và kim loại, máy móc chung và máy móc điện tử, thiết bị ngành giao thông, bán buôn và bán lẻ, tài chính và bảo hiểm, bất động sản, dịch vụ… Riêng nông nghiệp cũng là ngành có nhiều tiềm năng do Nhật Bản là quốc gia có nền nông nghiệp công nghệ cao phát triển.
"Yếu tố Nhật Bản" đang thâm nhập dần vào cuộc sống của người dân Việt Nam. Tại Tp.HCM có 10.000 người Nhật, trên 500 nhà hàng, 140 cửa hàng tiện ích Nhật Bản. Số hội viên của Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản ở Tp.HCM là 834, ở Hà Nội là 634, Đà Nẵng là 94. Tiếng Nhật đã được giảng dạy thí điểm ở một số trường tiểu học…