Xuất khẩu thuỷ sản sang Trung Quốc còn nhiều dư địa lớn
Mặc dù trong năm 2023 xuất thủy sản sang Trung Quốc sụt giảm, nhưng theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam, triển vọng và dư địa ở thị trường này vẫn rộng mở đối với các doanh nghiệp Việt Nam…
Thị trường Trung Quốc ngày càng giữ vị trí quan trọng đối với các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam. Những năm gần đây, Trung Quốc nằm trong top 3 thị trường nhập khẩu thủy sản Việt Nam, chỉ đứng sau Mỹ và Nhật Bản.
Năm 2022, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Trung Quốc đạt 1,6 tỷ USD, tăng 66% - doanh số kỷ lục và tăng trưởng kỷ lục, sau khi giảm xuống còn 990 triệu USD năm 2021 do những hạn chế bởi dịch Covid.
Mặc dù trong 9 tháng năm 2023, doanh thu thủy sản xuất khẩu sang thị trường này đạt 1 tỷ USD, giảm 18% so với cùng cùng kỳ năm 2022 do xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc gặp những vấn đề như các thị trường khác giảm giá, lượng tồn kho cao.
Những mặt hàng chiếm tỷ trọng cao nhất là cá tra (chiếm 40%) và tôm chiếm 38% đều bị giảm giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc lần lượt tôm giảm 8%, cá tra giảm 27%.
Một số loài hải sản khác xuất khẩu sang Trung Quốc cũng bị giảm mạnh doanh số, trong đó mực bạch tuộc giảm 10%, cua ghẹ giảm 82%, các loại cá khác vẫn giữ mức tương đường cùng kỳ năm 2022.
Tuy nhiên, nếu xét riêng từng loài thủy sản thì năm 2023 có nhiều loài có tín hiệu tích cực với mức tăng trưởng mạnh: như tôm chân trắng, tôm sú, tép biển (ruốc), cá hố, cá chỉ vàng, cá thu, cá đổng, cá nục, cá mắt kiếng, bạch tuộc, nghêu...
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (VASEP), xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc sụt giảm vì giá xuất khẩu giảm nhưng triển vọng và dư địa ở thị trường này vẫn rộng mở đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.
Thứ nhất: Một số chuyển dịch trong đầu tư kinh tế ở Trung Quốc cũng được coi là cơ hội cho thủy sản Việt Nam. Các ngành kinh tế siêu lợi nhuận và sinh lợi cao được quan tâm đầu tư nhiều hơn, do đó đầu tư cho nuôi trồng thủy sản giảm, xuất khẩu thủy sản của nước này cũng giảm dần trong những năm gần đây, do cả yếu tố Covid và xu hướng chuyển dịch kinh tế. Do vậy, các chuyên gia kinh tế đánh giá Trung Quốc sẽ ngày càng phụ thuộc vào thủy sản nhập khẩu, giống như mô hình các nước phương Tây.
Thứ hai: Dịch Covid đã chấm dứt, giao thương của Trung Quốc với thế giới hoàn toàn bình thường; kinh tế Trung Quốc có tín hiệu tích cực, nhu cầu thủy sản đang hồi phục: cá tra, tôm sú, tôm chân trắng, mực, bạch tuộc.
Thứ ba: Vị thế địa lý thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc, chi phí logistic giảm và ít hơn so với các nước khác; Trung Quốc ngừng nhập khẩu thủy sản từ Nhật Bản, sẽ thay thế bằng các nguồn cung khác, trong đó có Việt Nam…
Thứ tư: Những biến động địa chính trị, lạm phát, khủng hoảng năng lượng,… khiến cho nhu cầu tiêu thụ thủy sản của các nước lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản sụt giảm mạnh, trong khi đó nhập khẩu của Trung Quốc đang tăng lên.
“Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã xác định thị trường Trung Quốc đã và sẽ tiếp tục là điểm đến tiềm năng cho thủy sản Việt Nam nếu cả ngành thủy sản và cộng đồng doanh nghiệp nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu và cơ hội từ thị trường”, VASEP nhận định.
Bên cạnh đó, nếu xung đột ở Trung Đông leo thang, chi phí nhiên liệu sẽ tăng trở lại và tiếp tục xảy ra khủng hoảng năng lượng kết hợp với lạm phát và lãi suất cao. Dự báo xuất khẩu sang thị trường Mỹ, EU năm 2024 – 2025 sẽ càng khó khăn và Trung Quốc sẽ là thị trường mục tiêu của nhiều nước xuất khẩu thủy sản.
Dù vậy, để tận dụng, phát huy tốt cơ hội từ thị trường Trung Quốc và tiềm năng của ngành thủy sản Việt Nam, VASEP cho rằng hoạt động giao thương B2B cần được tăng cường hơn nữa.
Trong đó, giao thương cấp địa phương cần được quan tâm hơn; cần có sự trao đổi, chia sẻ thông tin về nhu cầu và qui định thị trường, đặc biệt khi có những thay đổi về chính sách xuất nhận khẩu; mở rộng danh sách doanh nghiệp và các sản phẩm thủy sản được phép xuất khẩu sang Trung Quốc, mở cửa hơn cho các loài thủy sản tươi sống xuất khẩu vào Trung Quốc: tôm hùm bông, cua sống...
Đồng thời, cần hợp tác thúc đẩy các quy trình phê duyệt cấp phép cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc như duy trì thông quan thông suốt tại các cửa khẩu biên giới; thúc đẩy kết nối giao thông đường bộ, đường sắt tại khu vực biên giới; hợp tác xây dựng các kho lạnh, cơ sở hậu cần phục vụ cho giao thương nông thủy sản Việt Nam – Trung Quốc, nhất là giao thương qua biên giới.