Cách thức nhà đầu tư ngoại “săn” bất động sản Việt
Nhiều nhà đầu tư ngoại khi tiếp cận thị trường bất động sản Việt Nam là sẽ mua 1 dự án đã hoạt động, sau khoảng 6,7 năm thì chuyển nhượng…
Chia sẻ tại hội thảo "Dòng tiền và xu thế bất động sản cuối năm 2022", ông Sử Ngọc Khương, Giám đốc cấp cao Savills Việt Nam, cho biết các nhà đầu tư nước ngoài khi vào thị trường Việt Nam, họ có thể lập một công ty ở tại một quốc gia nào đó. Thông qua công ty này, tiền có thể bơm về công ty tại Việt Nam để thực hiện việc đầu tư.
Họ sử dụng cấu trúc gọi là “thiên đường thuế”, để tránh thuế, hoặc hiệp định thuế giữa các quốc gia để cấu trúc nguồn vốn. Đó là lý do vì sao có những doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam bị truy thu thuế.
Nói chung, nhà đầu tư nước ngoài nhìn vào luật thuế ở Việt Nam để cơ cấu lại nguồn vốn, làm sao tối ưu hoá nguồn vốn của họ. Đó là cách họ tránh rủi ro tại những quốc gia mà họ đầu tư. Trên thế giới, câu chuyện này là bình thường. Nhà đầu tư ngoại cũng áp dụng chiêu thức đầu tư này rất nhiều tại thị trường Việt Nam.
Khi có rủi ro kinh tế, đơn cử như lạm phát, họ có thể bán doanh nghiệp ở Việt Nam hoặc nước ngoài để tránh lạm phát. Vấn đề đặt ra, liệu nhà đầu tư ngoại có rút vốn đầu tư khỏi Việt Nam?
Theo ông Khương, ở các nước, chi phí tài chính chỉ chiếm 1-2%. Đối với những dự án tạo ra dòng tiền ổn định, ví dụ một toà nhà, suất sinh lời khoảng 6-7% thì so với chi phí tài chính chỉ chiếm 1-2%, họ có lời hơn 4%.
Cách thức của nhà đầu tư ngoại là mua một dự án đã hoạt động, sau khoảng 6,7 năm thì chuyển nhượng. Với một thị trường nhỏ như Việt Nam, nếu biên độ lợi nhuận hấp dẫn so với chi phí tài chính, so với rủi ro lạm phát, Việt Nam vẫn là “điểm nóng” để họ tham gia. Do đó, việc nhà đầu tư ngoại rút vốn khỏi Việt Nam do lạm phát là khó xảy ra. Vấn đề là không có dự án “sạch” để họ đầu tư.
Đại diện Savills Việt Nam cũng thông tin thêm, khi làm việc với các nhà đầu tư trong thời gian vừa qua, họ tập trung vào những dự án có dòng tiền nhanh thông qua việc mua bán sáp nhập các dự án văn phòng, trung tâm thương mại, căn hộ dịch vụ, khu công nghiệp.
Cách thức cụ thể mà họ tiếp cận thị trường Việt Nam là mua lại 1 dự án khu công nghiệp lớn mà chủ đầu tư đã cho thuê, lấp đầy. Chưa bao giờ nhà đầu tư cho rằng thị trường Việt Nam không còn cơ hội nữa. Đến thời điểm bây giờ bất động sản Việt Nam vẫn là “nồi lẩu ngon” cho các nhà đầu tư ở trong và ngoài nước.
Dù rằng, hiện nay, hầu hết các dự án bất động nhà ở do nhà đầu tư Việt Nam “cầm trịch”. Với các loại hình bất động sản công nghiệp, du lịch, dịch vụ…, nhà đầu tư trong nước không mặn mà bởi thời gian hoàn vốn rất lâu.
Đặc biệt, trong bối cảnh dịch Covid -19 trong 2 năm qua, bức tranh bất động sản Việt Nam trên bản đồ đầu tư thế giới rất nhỏ bé nhưng vẫn là “điểm nóng” của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư trong khu vực, như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông.
Ngay trong thời điểm bùng phát dịch bệnh tại Việt Nam, vẫn có những thương vụ được tiến hành. Điều này có được là do các nhà đầu tư ngoại đã có kinh nghiệm ở thị trường Việt Nam. Ngoài ra, bất động sản Việt có nhiều phân khúc đa dạng, như: nhà ở, du lịch, văn phòng, căn hộ dịch vụ, khu công nghiệp…
Nhận định về các dòng vốn trong năm nay, ông Đinh Thế Hiển, chuyên gia tài chính, cho rằng năm 2022, nguồn vốn duy nhất còn sáng là nguồn vốn FDI vào các khu công nghiệp, mua nhà xưởng tiếp tục có vốn phát triển.
Trong một diễn biến liên quan, thông tin mới nhất về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vừa được Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố cho thấy, ngành kinh doanh bất động sản tiếp tục đứng thứ 2 trong 18 ngành nghề thu hút được vốn FDI đầu tư.
Cụ thể, tính đến 20/6/2022, nguồn vốn FDI đổ vào ngành kinh doanh bất động sản đạt trên 3,15 tỷ USD, chiếm 22,5% tổng vốn đầu tư đăng ký.đạt