Khơi nguồn cho các động lực của kinh tế số
"Các chiến lược, các mục tiêu phát triển đến năm 2025 của Bộ Thông tin và Truyền thông đặt ra đều là vấn đề quốc gia, rất lớn, nó vừa là cơ hội để Việt Nam sử dụng công nghệ để bứt phá, đồng thời cũng là thách thức bởi nếu không làm thì sẽ tụt hậu..."
Việt Nam đang đứng trước một cơ hội lớn chưa từng có, đó là sử dụng công nghệ để bứt phá trở thành cường quốc về an ninh mạng, để thiết kế sáng tạo và sản xuất ra các sản phẩm “Make in Vietnam”, để khởi tạo cho công cuộc chuyển đổi số của toàn xã hội và tiến ra toàn cầu...
Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần có những chính sách, thể chế, hạ tầng pháp lý mạnh mẽ để khơi nguồn cho các động lực trên phát triển.
Chuyên mục Diễn đàn Bàn tròn kỳ này của VnEconomy đã ghi lại các ý kiến của các chuyên gia đến từ các hiệp hội, doanh nghiệp với mong muốn góp thêm các giải pháp cho mục tiêu chuyển đổi số quốc gia đã và đang được Chính phủ thúc đẩy mạnh mẽ.
XÂY DỰNG KINH TẾ SỐ AN TOÀN, ĐẢM BẢO AN NINH MẠNG
VNISA luôn ủng hộ định hướng của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc Việt Nam phải làm chủ các thiết bị hạ tầng số, nhất là 5G, phủ sóng toàn quốc 5G năm 2022. Việt Nam phải trở thành cường quốc về an toàn, an ninh mạng để bảo vệ sự thịnh vượng của Việt Nam trên không gian mạng và làm chủ hệ sinh thái các sản phẩm an toàn, an ninh mạng (hiện đã làm chủ 90%).
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo tác động mạnh mẽ đến ngành này thông qua công nghệ số và chuyển đổi số. Tại Việt Nam, năm 2020 được coi là năm chuyển đổi số quốc gia với việc triển khai mạnh mẽ các hạ tầng, nền tảng, sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin, áp dụng các công nghệ tiên tiến như dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud Computing), trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT)...
Nhiệm vụ của Chi hội VNISA phía Nam không chỉ là nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp mà còn cho cả người dân về tầm quan trọng của việc đảm bảo an toàn, an ninh thông tin mạng; tích cực tổ chức tham gia, xây dựng chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực an toàn thông tin; tổ chức một số hoạt động tư vấn, đào tạo về an toàn thông tin; hợp tác trong nước và quốc tế; phát triển tổ chức hội và hội viên...
Có thể nói, an toàn thông tin mạng đang là tiêu chí hàng đầu, cần sự đầu tư thỏa đáng, liên tục. Do đó, vấn đề đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, an toàn thông tin là cần tăng cường kinh phí đầu tư trang thiết bị hệ thống công nghệ thông tin, an toàn thông tin; tự chủ về công nghệ, sản phẩm dịch vụ; phát triển các dịch vụ an toàn thông tin cơ bản; phát triển hệ sinh thái an ninh thông tin mạng.
Còn đối với doanh nghiệp không chuyên về công nghệ thông tin, an ninh thông tin cần tăng cường các dịch vụ như: giám sát an toàn thông tin; ứng cứu sự cố và xử lý mã độc; đào tạo, huấn luyện, diễn tập an toàn thông tin; kiểm tra, đánh giá an toàn thông tin và các dịch vụ tư vấn khác.
Hiện nay, các doanh nghiệp mới, nhỏ và vừa thường không đầu tư nhiều hoặc không quan tâm về an toàn thông tin, dẫn tới việc tự tạo lỗ hổng an toàn mạng, điều này dễ dàng cho các hacker cài mã độc. Ngoài ra, thực trạng thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực có trình độ chuyên môn trong ứng cứu sự cố; chưa chú trọng xây dựng chính sách đảm bảo an toàn thông tin; chưa áp dụng hệ thống quản lý an toàn thông tin theo tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn quốc tế; lãnh đạo doanh nghiệp chưa thực sự chú trọng công tác đào tạo nhận thức an toàn thông tin cho người dùng cuối... đang là những vấn đề nhức nhối hiện nay.
CẦN NỀN TẢNG CỦA VIỆT NAM TẠO SỰ ĐỘT PHÁ CHO QUỐC GIA
Về định hướng của ngành mà Bộ Thông tin và Truyền thông báo cáo Thủ tướng Chính phủ mới đây, ở góc độ cá nhân tôi thấy nổi lên hai khía cạnh. Một là định hướng được chủ trương (ngành) cho Chính phủ. Hai là định hướng cho doanh nghiệp.
Cụ thể, mảng thứ nhất liên quan đến chiến lược an toàn thông tin, chính các doanh nghiệp lớn cần đầu tư nguồn lực lớn để tiếp cận nhanh và làm chủ công nghệ về an ninh an toàn và rất cần cho quốc gia. Trên cơ sở định hướng đấy, các doanh nghiệp đủ tiềm lực sẽ đầu tư vào, đảm bảo an toàn bền vững.
Mảng thứ hai là nền tảng công nghệ Việt, muốn dẫn dắt thì Việt Nam phải có những nền tảng của mình, trên cơ sở đấy thúc đẩy sản phẩm Việt, nhanh chóng phát huy, tạo điều kiện cần cho sự đột phá của quốc gia, từ đó triển khai các giải pháp công nghệ đáp ứng cho xã hội.
Tất cả các doanh nghiệp đều có những ý tưởng để tập trung vào sản phẩm Việt. Khi thị trường mở ra thì mở cho cả xã hội. Các doanh nghiệp nhỏ là cơ hội, doanh nghiệp lớn là chiến lược lâu dài. Ví dụ doanh nghiệp lớn sẽ quan tâm nhiều đến nền tảng (platform), doanh nghiệp nhỏ thì giải pháp, ý tưởng mới, mà ý tưởng mới để ra thị trường nhanh thì phải có nền tảng.
Như vậy chiến lược của ngành khá rõ, và chiến lược này rất quan trọng đối với các tập đoàn lớn đang tập trung vào như VNPT. Trên nền tảng chiến lược đấy, VNPT cũng sẽ có những chiến lược phát triển cho phù hợp với chiến lược của ngành, đồng thời cũng phải định vị VNPT trong vai trò chiến lược quốc gia.
Theo tôi, trong môi trường hiện nay, sự phối hợp giữa các bộ ngành để ra hành lang pháp lý là cực kỳ quan trọng. Ở đây, kinh nghiệm của thế giới. Chuyển đổi số có nghĩa là có sự thay đổi và pháp lý phải song hành và phải đi trước. Nếu muốn pháp lý đi trước thì các bộ ngành, những đơn vị làm luật phải vào cuộc nhanh vì thời đại công nghệ này không cho phép chậm.
HẠ TẦNG PHÁP LÝ THÔNG THOÁNG CHO THỬ NGHIỆM CÁC DỊCH VỤ SỐ
Trong chương trình chuyển đổi số quốc gia của Thủ tướng Chính phủ cũng như các chiến lược phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số của Bộ Thông tin và Truyền thông đang xây dựng, doanh nghiệp ICT được xác định là lực lượng tiên phong.
Doanh nghiệp công nghệ thông tin tập hợp nguồn lực, vận dụng trí tuệ và nền tảng công nghệ đã tích lũy hơn 20 năm qua giải quyết các bài toán chuyển đổi số từ tổng thể đến chi tiết từng ngành, lĩnh vực, địa phương, đóng góp trực tiếp xây dựng và phát triển cả 3 trụ cột chính gồm: chính phủ số, kinh tế số, và xã hội số.
Chúng tôi xem đây là sứ mệnh, nghĩa vụ với quốc gia, với dân tộc. Các thành viên VINASA từ năm 2018 đã đặt cho mình sứ mệnh: “xung kích chuyển đổi số”. Và giờ đây, chúng tôi đặt mục tiêu hàng đầu là phụng sự Tổ quốc, đưa Việt Nam thành quốc gia hùng cường bằng công nghệ thông tin.
Hiệp hội đang cổ vũ mạnh mẽ các doanh nghiệp công nghệ thông tin bắt tay tạo ra các hệ sinh thái số cho các ngành, lĩnh vực. Theo đó, một bộ phận doanh nghiệp lớn có tiềm lực tài chính, công nghệ, nhân lực sẽ tập trung xây dựng các nền tảng chuyển đổi số như nền tảng cho nhà phát triển (Marketplace), nền tảng công nghệ lõi (AI, Big Data, IoT...), nền tảng dịch vụ phần mềm (Saas)... Các doanh nghiệp quy mô khiêm tốn hơn sẽ tham gia phát triển các phần mềm, giải pháp, dịch vụ tích hợp... Sự liên minh, hợp tác của cộng đồng doanh nghiệp sẽ giúp nhanh chóng hình thành hệ sinh thái số ưu việt, tiết kiệm nguồn lực đầu tư và tạo ra sự phát triển bền vững cho ngành.
Điều này đã được hiệp hội tiến hành thông qua các chương trình, sự kiện lớn của ngành công nghệ thông tin như Giải thưởng Sao Khuê và sắp tới là Vietnam ICT Summit 2021, Ngày chuyển đổi số Việt Nam 2021...
Bộ Thông tin và Truyền thông trong những năm qua đã và đang có những bước đi rất nhanh và hiệu quả trong tập hợp nguồn lực công nghệ thông tin, tập trung nguồn lực cho chuyển đổi số quốc gia với các hạ tầng cơ bản như: hạ tầng kết nối (cấp phép thử nghiệm 5G sắp sửa chính thức thương mại hóa); hạ tầng dữ liệu (xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia và chính sách về dữ liệu mở); hạ tầng nền tảng ứng dụng với chương trình phát triển nền tảng, ứng dụng công nghệ, và thậm chí cả thiết bị Make in Vietnam...
Tuy nhiên, điều mà các doanh nghiệp công nghệ thông tin và cũng như các ngành kinh tế, các địa phương đang cần và kỳ vọng là một hạ tầng pháp lý. Đó là hạ tầng pháp lý (cơ chế Sandbox) thông thoáng cho thử nghiệm các dịch vụ mới, và hình thái kinh tế mới sinh ra từ chuyển đổi số trong các ngành. Cùng với đó là hạ tầng pháp lý cụ thể, thông thoáng hơn về đầu tư, tài chính cho các dự án, chương trình chuyển đổi số trong cơ quan, bộ, ngành, địa phương. Đây chính là động lực lớn để đẩy nhanh, mạnh tiến trình chuyển đổi số toàn diện quốc gia.
CÁC CHỦ TRƯƠNG CHÍNH SÁCH CẦN SÁT VỚI VỚI THỊ TRƯỜNG HƠN
Theo tôi, các doanh nghiệp Việt Nam đang có nhiều thuận lợi trong quá trình chuyển đổi số. Trước hết, thị trường công nghệ thông tin nói chung và chuyển đổi số nói riêng của Việt Nam khá sôi động, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có nhiều tham khảo, tư vấn và lựa chọn hơn.
Thứ hai, với sự phát triển của công nghệ, ngày càng nhiều giải pháp thông minh hơn, hiệu quả hơn, giúp doanh nghiệp dễ dàng tìm được giải pháp phù hợp.
Thứ ba, xu hướng ứng dụng chuyển đổi số cho doanh nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ, giúp cho các doanh nghiệp có nhiều câu chuyện thành công để tham khảo, rút kinh nghiệm.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp hiện đang gặp phải một số khó khăn về thiếu nhân sự chuyên trách vừa am hiểu về công nghệ vừa am hiểu về quản trị và nghiệp vụ; yếu tố tích hợp và đồng bộ của các giải pháp, sản phẩm, nền tảng số chưa cao. Đặc biệt, thực tế hiện nay tỷ lệ doanh nghiệp Việt có ngân sách bài bản cho chuyển đổi số chưa nhiều.
Tôi cho rằng, chính phủ đang làm rất tốt vai trò lãnh đạo của mình trong công cuộc chuyển đổi số. Điều này cần tiếp tục phát huy để lãnh đạo gần doanh nghiệp hơn, hiểu thực trạng đang diễn ra hơn; từ đó các chính sách, chủ trương sẽ sát với thị trường và phát huy hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, cần có sự giám sát quá trình triển khai, đánh giá hiệu quả của các chương trình đó nhằm đảm bảo các chương trình được thực hiện đúng chủ trương, bám sát hiệu quả thực tiễn
ĐẨY NHANH TỐC ĐỘ SỐ HÓA TRONG TOÀN XÃ HỘI
Là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông, chúng tôi rất ủng hộ và hưởng ứng Nghị quyết 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021. Trong số các nhiệm vụ, giải pháp được đưa ra, thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, đẩy nhanh tiến độ xây dựng chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số là một trong những nhiệm vụ, giải pháp nổi bật được Chính phủ quan tâm chỉ đạo sát sao.
Thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý cho các loại hình kinh doanh mới, kinh tế số, cung cấp dịch vụ công. Ban hành chính sách thử nghiệm (sandbox) các sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh, công nghệ mới, như: kinh tế chia sẻ, kinh tế ban đêm, đô thị thông minh... để đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
Đẩy nhanh và triển khai toàn diện chương trình hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp Việt Nam, trong đó chú trọng doanh nghiệp nhỏ và vừa. Xây dựng hạ tầng kinh tế số, xã hội số, hạ tầng kết nối thông minh, phát triển trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật. Từng bước hình thành hạ tầng mạng thông tin di động 5G. Tăng cường sử dụng chung cơ sở hạ tầng công nghệ số và truyền thông, nền tảng dùng chung.
Covid-19 đã đưa ra một trong những thách thức to lớn trong lịch sử gần đây đối với các chính phủ, doanh nghiệp và xã hội. Đại dịch là hồi chuông cảnh tỉnh các công ty cần có kế hoạch đối phó với sự gián đoạn để đảm bảo hoạt động kinh doanh được liên tục. Đó cũng là thời điểm bước ngoặt báo hiệu quá trình tăng tốc nhanh chóng cho số hóa trong toàn xã hội.
Yếu tố then chốt để duy trì hoạt động kinh doanh và khả năng phục hồi kinh tế trong cuộc khủng hoảng này là các nhà cung cấp mạng và viễn thông duy trì băng thông cho người tiêu dùng và doanh nghiệp. Công nghệ có tiềm năng to lớn để giúp kết nối mọi người trong thời gian chuyển sang làm việc từ xa và học trực tuyến có thể sẽ mở rộng vượt ra ngoài đại dịch Covid-19. Hợp tác với các chính phủ, các tổ chức tài chính và cơ quan quản lý có thể xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật số phù hợp để phục vụ xã hội.
Đối với các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và các cơ quan y tế công cộng, các đợt bùng phát sẽ tiếp tục là mối đe dọa nhưng có thể giảm thiểu tác động của đợt bùng phát bằng cách khai thác dữ liệu lớn và AI để dự đoán và dự báo dịch bệnh, cũng như nguồn cung cấp y tế. Hay trong lĩnh vực chuỗi cung ứng thực phẩm và bán lẻ, việc tích hợp công nghệ đột phá vào kinh doanh nông nghiệp, nông nghiệp và thương mại điện tử sẽ giúp mang lại sự minh bạch hơn và truy xuất nguồn gốc vào chuỗi giá trị để phục vụ khách hàng và xã hội một cách có trách nhiệm và bền vững hơn.
CẦN CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH GIỐNG NHƯ HÀN QUỐC, TRUNG QUỐC
Tôi thấy chiến lược, các mục tiêu phát triển đến năm 2025 của Bộ Thông tin và Truyền thông đưa ra trong cuộc làm việc với Thủ tướng Phạm Minh Chính mới đây là cực kỳ sắc nét. Cụ thể như trong lĩnh vực mà Bkav đang làm là an ninh mạng, thì câu chuyện Việt Nam có thể thành cường quốc về an ninh mạng, tôi là một trong những người nói đầu tiên và cũng rất tin tưởng vào điều này. Việt Nam có thể thành cường quốc an ninh mạng và có thể xuất khẩu “vũ khí” này trong tương lai.
Về chiến lược Make in Vietnam. Ở góc độ doanh nghiệp như Bkav, chúng tôi cũng là một trong những người khởi xướng việc này nên rất tin tưởng. Bkav đã hành động theo phương châm “Make in Vietnam” hơn chục năm nay rồi (sản xuất thiết bị smarthome, smartphone – PV) nên tôi khẳng định sẽ có hiệu quả nếu có thêm một số cơ chế nữa. Hay như chuyển đổi số, thế giới cũng nói nhiều và Việt Nam cũng bắt nhịp rất nhanh. Chuyển đổi số sẽ làm mới toàn xã hội, và đó là cơ hội cho những quốc gia yêu thích công nghệ và rất khát khao như Việt Nam.
Những vấn đề trên đều là vấn đề quốc gia, rất lớn, nó vừa là cơ hội để Việt Nam sử dụng công nghệ để bứt phá, đồng thời cũng là thách thức bởi nếu không làm thì sẽ tụt hậu.
Ở góc độ doanh nghiệp, ví dụ như chiến lược Make in Vietnam, mọi thứ Bkav đang làm không chỉ là phone (điện thoại) mà cho cả ngành, nó như một trường hợp điển hình (case study) cho cả ngành về Make in Vietnam – sản phẩm công nghiệp và đặc biệt là công nghiệp điện tử mà smartphone vẫn là cốt lõi mà các nước muốn phát triển. Rõ ràng tất cả về công nghệ (công nghệ làm smartphone), Bkav đã thấu hiểu và đã thành công, phải khẳng định như vậy.
Ở đây Bkav chỉ thiếu nguồn vốn. Khi cần phát triển, mở rộng thì Bkav chỉ thiếu nguồn vốn thôi. Tôi cũng nhiều lần trình bày với Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng, cũng được anh Hùng hỗ trợ để làm việc với các ngân hàng nhưng họ (ngân hàng) không thể thay đổi được. Lý do là tài sản của các công ty công nghệ là những thứ không cầm nắm được, không giống như các công ty truyền thống như bất động sản, cứ có đất, dựng móng là có thể được ngân hàng cho vay.
Tôi kiến nghị cần có những cơ chế, chính sách giống như Hàn Quốc, Trung Quốc, tức có ngân hàng công nghệ hoặc một dạng quỹ về công nghệ. Việt Nam cũng có quỹ về công nghệ của Bộ Khoa học và Công nghệ nhưng về cơ chế cũng không giải ngân được. Tôi hy vọng Chính phủ sẽ giao cho ngân hàng nào đó làm nhiệm vụ đấy, hay giao một tổ chức nào đó có thể đánh giá được những giá trị công nghệ để tham gia góp sức cùng các doanh nghiệp về công nghệ.
Không chỉ Bkav mà tất cả các startup khác khi phát triển lên sản xuất lớn cũng đều cần những cơ chế như vậy. Ví dụ ở Trung Quốc, các công ty công nghệ lớn như Xiaomi, Oppo, Huawei... đều có được sự hỗ trợ tích cực của các quỹ và ngân hàng. Hay Samsung, LG của Hàn Quốc cũng vậy, ở giai đoạn đầu họ đều rất tích cực sử dụng các dịch vụ của các quỹ như thế này.
Tóm lại Bkav không cần một chính sách đặc biệt mà chỉ cần làm đúng cơ chế - cơ chế chung cho xã hội, chứ không phải đặc biệt cho mình. Thứ hai để giải quyết được về thể chế, chính sách thì cần phân công công việc giữa các công ty về công nghệ lớn ở trong nước, đặc biệt khối công ty công nghệ tư nhân và khối công nghệ nhà nước, cần có sự phân công để tạo nguồn lực cộng sinh.
Và thứ ba, là cần quy định khoảng 1% ngân sách của các bộ ngành cho công nghệ thông tin, do đó cần có một chính sách tốt, mạnh mẽ nào đó từ Chính phủ hay thậm chí từ phía Quốc hội.