Nhiều đề tài có tính lan tỏa nhưng chưa đáp ứng được thực tiễn xây dựng nông thôn mới
Chương trình khoa học công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới đã giúp cải thiện năng suất, chất lượng sản phẩm cây trồng, vật nuôi; chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cải thiện hiệu quả kinh tế và thu nhập của người dân... Tuy nhiên, vẫn còn ít đề tài nghiên cứu ứng dụng các công nghệ mới, tiên tiến trong phát triển kinh tế và quản trị xã hội như ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp, phát triển kinh tế tuần hoàn, mô hình kết nối nông thôn - đô thị…
Chiều 3/10/2022, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức hội nghị tổng kết chương trình Khoa học công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2021; nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2021-2025.
NHIỀU ĐỀ TÀI CÓ TÍNH LAN TỎA CAO
GS.TS Nguyễn Tuấn Anh, Chủ nhiệm Chương trình Khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020, cho biết thời gian qua, Chương trình đã góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, nông nghiệp kết nối và hiện đại, nông nghiệp sinh thái và bền vững; phát triển công nghiệp hỗ trợ cho nông nghiệp; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động nông thôn…
Chương trình cũng đã tạo ra nhiều sản phẩm khoa học thiết thực, nhiều mô hình chuyển giao và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp có tính lan tỏa cao.
Điển hình là trong lĩnh vực trồng trọt đã giúp tăng năng suất cây trồng 30 - 35% đối với rau màu, 10 - 15% đối với lúa, tăng thu nhập của người dân tham gia dự án trên 25%; nâng cao giá trị sử dụng đất sản xuất nông nghiệp đến 133 - 500 triệu đồng/ha/năm nhờ chuyển đổi cơ cấu nuôi trồng ở các mô hình liên kết sản xuất.
Trong lĩnh vực chăn nuôi, một số giống cho năng suất và chất lượng tốt được đưa vào sử dụng. Các giống lợn lai có khả năng thích nghi tốt, cho năng suất, chất lượng cao. Một số giống bò thịt lai 1⁄2 hoặc 3⁄4 máu ngoại giúp tăng năng suất và hiệu quả. Ứng dụng rộng rãi các giống gà thả vườn, gà đồi, nuôi vịt siêu trứng, vịt siêu thịt, ngan pháp...
"Với 97 quy trình sản xuất và công nghệ mới được chuyển giao, 208 mô hình trình diễn có hiệu quả cùng hàng nghìn trang thiết bị hỗ trợ của các dự án, Chương trình đã góp phần cải thiện năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sản xuất, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung…"
GS.TS Nguyễn Tuấn Anh, Chủ nhiệm Chương trình Khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020.
Bên cạnh đó, các yếu tố tiêu biểu làm tăng hiệu quả kinh tế với các mức độ khác nhau đã đóng góp vào tổng năng suất tăng thêm như chuyển đổi cơ cấu cây trồng đóng góp 12,1%; quản lý dịch bệnh tổng hợp (IPM) đóng góp 15,0%; thủy lợi đóng góp 35 - 40%; giống cây mới đóng góp 25 - 30%; giống vật nuôi mới đóng góp 16,8%; phân bón và các biện pháp kỹ thuật khác đóng góp 25 - 30%; quy trình VietGAP đóng góp 12,5%; sản xuất hướng hữu cơ đóng góp 8,7%; công nghệ xử lý chất thải đóng góp 13,0%; sử dụng chế phẩm sinh học đóng góp 6,8%; chế biến (dược liệu) đóng góp 18,8%...
Nhiều mô hình điển hình về tăng năng suất, chất lượng như mô hình sản xuất khoai tây giống tại Bắc Giang đã cho thu nhập 190-220 triệu đồng/ ha… Hay như mô hình canh tác tiết kiệm nước, giảm phát thải khí metan (CH4) triển khai tại huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương thuộc đề tài “Nghiên cứu công nghệ quản lý, chế độ canh tác lúa cải tiến nhằm tiết kiệm nước, tăng năng suất và giảm thải khí nhà kính”, đến nay đã được nhân rộng lên 129.845.9 ha trên cả nước.
Bên cạnh các kết quả đạt được, GS.TS Trần Tuấn Anh cho rằng Chương trình còn những hạn chế cả về lượng và chất của các đề tài, dự án, cũng như trong cơ chế hoạt động.
Với số lượng hạn chế của các đề tài, dự án, Chương trình chưa đáp ứng được toàn bộ các nhu cầu của thực tế xây dựng nông thôn mới vốn rất rộng và toàn diện, ngày càng chuyên sâu, đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ và tổng hợp của hầu hết mọi lĩnh vực phát triển nông thôn.
“Vẫn còn ít đề tài nghiên cứu ứng dụng các công nghệ mới, tiên tiến trong phát triển kinh tế và quản trị xã hội như ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp, nông thôn; phát triển kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp sinh thái, làng thông minh; phát triển kinh tế phi nông nghiệp; mô hình kết nối nông thôn - đô thị… “, GS.TS Trần Tuấn Anh nêu rõ.
ƯU TIÊN THỰC HIỆN CÁC ĐỀ TÀI Ở VÙNG KHÓ KHĂN
Đề cập nhiệm vụ Chương trình Khoa học công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới từ nay đến năm 2025, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam, cho biết các đề tài, dự án triển khai sẽ thực hiện bám sát chủ trương, định hướng của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
“Thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện hiệu quả Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới; đề xuất được các giải pháp khoa học công nghệ nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp, kinh tế nông thôn” ông Nam nói.
"Mỗi một đề tài nghiên cứu khoa học phục vụ xây dựng nông thôn mới không chỉ tập trung vào yếu tố kỹ thuật, mà cần phải gia tăng hàm lượng tri thức đi cùng với yếu tố kinh tế nông nghiệp, yếu tố thị trường nhằm tối ưu giá trị nông sản, giảm giá thành sản xuất cũng như chi phí vật tư đầu vào…”
Ông Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Thứ trưởng Trần Thanh Nam cho hay sẽ chú trọng triển khai các mô hình, dự án có tính mới, khả năng ứng dụng và tính lan tỏa cao trong thực tiễn; phù hợp để phát triển và nhân rộng; ưu tiên các mô hình, dự án ứng dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, thân thiện với môi trường...
Đặc biệt là ưu tiên thực hiện các đề tài, dự án tại các địa bàn đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới và hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh và quốc phòng.
Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Bộ Trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan nhấn mạnh: Nghiên cứu, ứng dụng Khoa học công nghệ trong xây dựng nông thôn mới phải song hành để chuyển hoá được tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp.
Bộ trưởng yêu cầu Văn phòng Điều phối Nông thôn mới Trung ương cần nhanh chóng xây dựng đề tài, triển khai kế hoạch tuyên truyền, tiếp thị, quảng bá. Các đề tài triển khai phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, trực tiếp giải quyết các vấn đề cấp thiết gắn với đặc thù, phù hợp với điều kiện của từng địa phương.
“5 năm tới, đất đai cho nông nghiệp sẽ bị thu hẹp để dành quỹ đất, tài nguyên phục vụ cho ngành công nghiệp và hạ tầng của những loại hình dịch vụ, kinh tế khác. Năng suất của các sản phẩm nông nghiệp rồi sẽ đến giới hạn. Nếu không thể gia tăng năng suất, sản lượng, không còn cách nào khác ngoài nâng cao giá trị nông sản”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan khẳng định.