Tâm trạng bi quan của giới tài chính tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới
Giới tinh hoa tài chính toàn cầu trong tuần qua đã hội tụ tại chuỗi sự kiện thường niên của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) diễn ra ở khu nghỉ dưỡng Davos trên dãy Alps Thuỵ Sỹ. Triển vọng kinh tế toàn cầu u ám là một trong những chủ đề được nói đến nhiều nhất tại diễn đàn lần này...
Một số nhà hoạch định chính sách, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà đầu tư xuất hiện tại Davos đã đề cập đến khả năng xảy ra suy thoái kinh tế ở những quốc gia hay khu vực chịu nhiều ảnh hưởng của chiến tranh Nga-Ukraine và tắc nghẽn chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt là châu Âu. Một số khác đưa ra cái nhìn bi quan hơn nhiều về toàn bộ nền kinh tế thế giới.
BỐI CẢNH KINH TẾ ẢM ĐẠM
Sự kiện WEF năm nay diễn ra trong bối cảnh lạm phát tăng cao, trong đó giá lương thực-thực phẩm và năng lượng cùng leo thang với tốc độ chóng mặt. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là chiến tranh và các nút thắt trong chuỗi cung ứng cùng với ảnh hưởng kéo dài của đại dịch Covid-19. Sức nóng của giá cả đang gây áp lực buộc các ngân hàng trung ương phải thắt chặt chính sách tiền tệ đúng vào lúc các hoạt động kinh tế giảm tốc.
Dữ liệu gần đây về các nền kinh tế lớn cho thấy lạm phát đã bắt đầu gây ảnh hưởng tiêu cực tới sức khoẻ của nền kinh tế. Điều này đặt ra rủi ro lớn hơn cho triển vọng tăng trưởng toàn cầu và thách thức đối với các nhà hoạch định chính sách - những người đang bị đặt vào thế khó khi vừa phải thắt chặt chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát, vừa phải tính toán nên thắt chặt tới mức nào là vừa đủ để không đẩy nền kinh tế rơi vào suy thoái.
Nhận định tại ngày khai mạc của chuỗi sự kiện hôm 23/5, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) nói rằng nền kinh tế thế giới đang đối mặt với “thử thách khốc liệt nhất kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai”. Tổng giám đốc IMF Kristalina Georgieva nói thế giới đang cùng lúc đứng trước nhiều thách thức gồm chiến tranh, dịch bệnh, lạm phát, tăng trưởng giảm tốc, lãi suất tăng, biến động thị trường tài chính, biến đổi khí hậu…
Tiếp đó, vào hôm 24/5, tỷ phú George Soros phê phán chính sách chống dịch hà khắc Zero Covid mà Trung Quốc đang quyết tâm theo đuổi. Ông cho rằng các biện pháp của chính sách này, bao gồm phong tỏa kéo dài, đã đẩy nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới vào tình trạng “rơi tự do” kể từ tháng 3. Đề cập đến cú sụt mạnh gần đây của Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) của Trung Quốc do Caixin thực hiện, ông Soros nói “hoạt động kinh tế đang giảm sâu” của Trung Quốc có thể kéo nền kinh tế toàn cầu tụt dốc theo trừ khi Bắc Kinh ngừng Zero Covid. “Ngoài cuộc khủng hoảng trong ngành bất động sản Trung Quốc, chính sách Zero Covid của nước này sẽ gây thiệt hại lớn tới mức ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu. Với tình trạng gián đoạn trong chuỗi cung ứng, lạm phát sẽ đẩy nền kinh tế toàn cầu vào suy thoái”, ông Soros phát biểu.
BA CHỮ “R” GÂY LO NGẠI
Tại một cuộc thảo luận tại Davos do Hãng tin CNBC tổ chức hôm 23/5, CEO Jane Fraser của Ngân hàng Citigroup đã nói về mức độ ảnh hưởng của mỗi chữ “R” trong 3 nhân tố gồm Nga, suy thoái và lãi suất (Russia, Recession, Rates) tùy thuộc vào từng nền kinh tế.
“Ở Mỹ, vấn đề là lãi suất vì nền kinh tế đang có độ vững vàng cao hơn, cả về thị trường lao động và tiêu dùng. Người tiêu dùng Mỹ hiện đang nắm lượng tiền gửi 3,4 nghìn tỷ USD, nhiều hơn so với mức 1 nghìn tỷ USD mà họ có trước đại dịch”, bà Fraser nói. “Tôi nghĩ tình hình châu Âu đáng lo hơn, vì họ ở chính giữa cơn bão chuỗi cung ứng, đương đầu với khủng hoảng năng lượng và ở ngay sát cuộc chiến tranh ở Ukraine”.
Khi được hỏi liệu kinh tế châu Âu có thể suy thoái hay không, bà Fraser trả lời quả quyết: “Có, và tôi hy vọng là tôi sai”.
Vị CEO này lập luận rằng ở châu Á, các quốc gia đã vươn lên từ đại dịch với “tinh thần lạc quan hơn”. Theo bà, ngay cả Trung Quốc xem Covid là một sự kiện đang xảy ra thay vì một xu hướng dài hạn, và Bắc Kinh có thể triển khai thêm các gói kích thích kinh tế. “Nhưng lương thực-thực phẩm đang là một mối lo lớn, vì đó là một vấn đề khó đoán định. Khi thế giới có nhiều người đói, đó sẽ là một thách thức. Sẽ có khoảng 1,5 tỷ người bị đói mà không thể tiếp cận với lương thực, nhất là ở châu Phi”, bà Fraser phát biểu.
Nguy cơ khủng hoảng lương thực cũng là vấn đề mà Tổng giám đốc IMF Kristalina Georgieva đề cập đến nhiều. “Chúng ta đang trải qua cú sốc giá hàng hoá cơ bản ở nhiều quốc gia, và một cú sốc cụ thể mà tôi muốn mọi người dành sự quan tâm là cú sốc giá lương thực-thực phẩm. Gần đây, giá dầu có lúc giảm vì mối lo kinh tế giảm tốc, nhưng giá lương thực-thực phẩm vẫn cứ tăng. Tại sao? Chúng ta có thể giảm sử dụng xăng khi kinh tế đi xuống, nhưng chúng ta phải ăn hàng ngày, và mối lo về khả năng tiếp cận lương thực với mức giá phải chăng trên toàn cầu đã đạt tới mức đỉnh điểm”, bà Georgieva nói.
NGUY CƠ SUY THOÁI Ở CHÂU ÂU
Theo dự báo của IMF, nền kinh tế toàn cầu có thể chỉ đạt mức tăng trưởng 3,6% trong năm 2022, giảm tốc mạnh so với mức tăng 6,1% trong năm 2021. Tuy nhiên bà Georgieva cho rằng “còn một khoảng cách lớn giữa mức tăng trưởng 3,6% đến một cuộc suy thoái toàn cầu”.
“Suy thoái có thể xảy ra ở một số quốc gia với mức tăng trưởng đang yếu, như những nước chưa phục hồi từ cuộc khủng hoảng do Covid gây ra, những nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu năng lượng hoặc lương thực từ Nga, hay những nước có môi trường kinh tế yếu sẵn. Tuy nhiên, đến hiện tại chúng ta vẫn chưa thấy xảy ra suy thoái”, bà nói.
Vị trí địa lý của châu Âu gần kề với nơi xảy ra cuộc chiến tranh và mức độ phụ thuộc lớn của khu vực này vào nhập khẩu năng lượng từ Nga, cùng với giá lương thực-thực phẩm và năng lượng tăng vọt và cú sốc nguồn cung toàn cầu do phong toả ở Trung Quốc, đã khiến nhiều chuyên gia kinh tế mạnh tay cắt giảm dự báo tăng trưởng kinh tế khu vực Eurozone trong vòng 1 tháng trở lại đây.
Lạm phát tại Eurozone lập kỷ lục tháng thứ 6 liên tiếp trong tháng 4 vừa qua, với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tại khu vực gồm 19 nền kinh tế thành viên này tăng 7,5% so với cùng kỳ năm ngoái, gây áp lực lên Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) trong việc bắt đầu tăng lãi suất trở lại. Tuần trước, lãnh đạo ECB đã phát tín hiệu sẽ tăng lãi suất trong cuộc họp tháng 7.
“Chúng ta đã nhìn thấy rõ những hậu quả của chiến tranh Nga-Ukraine. Cuộc chiến đã gây ra những cú sốc trên khắp thế giới và dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu bị cắt giảm mạnh”, Phó chủ tịch điều hành Ủy ban châu Âu (EC) Valdis Dombrovskis nói với CNBC. “EU cũng hứng chịu những hậu quả tương tự. Dự báo tăng trưởng kinh tế mới nhất của chúng tôi cho năm nay là tăng 2,7%, so với mức dự báo đưa ra trước chiến tranh là 4%. Đó là một sự giảm tốc mạnh”.
Tuy nhiên, theo ông Paolo Gentiloni, Cao ủy viên phụ trách các vấn đề kinh tế của EU, vẫn có một số điểm sáng để tin rằng nền kinh tế khu vực này chưa chắc đã suy thoái. “Chúng tôi vẫn còn đà phục hồi sau cuộc khủng hoảng Covid, nhưng dĩ nhiên mỗi khi nền kinh tế gặp thách thức, cách chúng tôi quản lý giai đoạn chuyển giao này sẽ quyết định suy thoái có xảy ra hay không”, ông Gentiloni nói. Trong khi đó, CEO các công ty lớn nhất châu Âu đưa ra quan điểm bi quan hơn. CEO Thomas Buberl của Tập đoàn bảo hiểm Pháp AXA nói rằng nguy cơ suy thoái ở châu Âu là “cao hơn nhiều so với ở Mỹ và môi trường kinh tế của khu vực này từ giờ trở đi sẽ càng trở nên khó khăn hơn”.
Còn Markus Steilemann, CEO Công ty sản xuất vật liệu Đức Covestro, nói môi trường lạm phát và suy giảm niềm tin của người tiêu dùng xảy ra vào đúng thời điểm mọi người muốn quay trở lại với thói quen du lịch và chi tiêu vào các dịch vụ, đồng nghĩa với “khả năng cao xảy ra suy thoái ở châu Âu”.