Bầu cử tổng thống Mỹ: Cam kết hồi sinh nền sản xuất có dễ thực hiện?
Ông Trump và bà Harris đều cam kết hồi sinh nền sản xuất Mỹ. Nhưng cần có thời gian để làm được điều này...
Tổng thống Mỹ Joe Biden từng tự hào về việc đưa việc làm sản xuất trở lại Mỹ. Nhưng trên thực tế, bất chấp nhiều khoản đầu tư và trợ cấp, ngành sản xuất Mỹ vẫn hoạt động trì trệ, phục hồi không đáng kể sau đại dịch Covid-19.
Theo các nhà phân tích, đây là một thách thức với cả Phó Tổng thống Kamala Harris và cựu Tổng thống Donald Trump khi một trong hai người được bầu làm tổng thống năm nay, dù họ đưa ra nhiều cam kết “đao to búa lớn” khi vận động tranh cử.
NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA NGÀNH SẢN XUẤT MỸ
Dưới chính quyền Biden, ngành sản xuất Mỹ được bơm nhiều tỷ USD, bao gồm 53 tỷ USD từ Đạo luật CHIP và Khoa học và gói chi tiêu hạ tầng 1,2 nghìn tỷ USD được Quốc hội thông qua. Đầu tư tư nhân trong lĩnh vực này cũng gia tăng những năm gần đây.
Khi nền kinh tế Mỹ bắt đầu phục hồi sau đại dịch, các khoản đầu tư khổng lồ trở thành động lực thúc đẩy tất cả các ngành, trong đó có sản xuất. Tuy nhiên, động lực đó không kéo dài.
Việc làm trong ngành sản xuất Mỹ hiện vẫn kém xa mức việc làm ở giai đoạn trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Tổng việc làm ngành sản xuất nước này tháng 8 chỉ tăng khoảng 2% so với đỉnh dịch tháng 2/2020. Theo dữ liệu của Bộ Lao động Mỹ, trong 8 tháng đầu năm nay có tới 4 tháng ghi nhận số lượng việc làm sản xuất sụt giảm. Khảo sát với các nhà sản xuất cũng cho thấy tâm lý không mấy tích cực.
Các nhà phân tích cho rằng cần có thời gian để các khoản đầu tư khổng lồ trên mang lại sự hồi sinh cho ngành sản xuất. Tuy nhiên, Mỹ chuẩn bị có chính quyền mới khi cuộc bầu cử tổng thống đang vào giai đoạn nước rút, đồng nghĩa nhiệm vụ hồi sinh ngành sản xuất chuẩn bị được chuyển giao cho tổng thống kế nhiệm.
Trong một sự kiện tranh cử vào chiều ngày 25/9 tại Pittsburgh bang Pennsylvania, bà Harris cam kết giảm thuế cho tầng lớp trung lưu, giảm mạnh thuế cho các startup và sửa đổi các quy định đối với dự án xây dựng.
“Chúng ta sẽ đầu tư vào sản xuất sinh học và hàng không vũ trụ; tiếp tục duy trì vị thế thống trị về trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán lượng tử, chuỗi khối và các công nghệ mới nổi khác; đồng thời thúc đẩy vị trí dẫn đầu về đổi mới năng lượng cũng như sản xuất xuất”, bà Harris cam kết.
Trước đó một ngày, tại thành phố Savannah, bang Georgia, ông Trump tuyên bố nếu đắc cử sẽ giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tăng thuế quan với hàng nhập khẩu, cắt giảm thủ thục hành chính – những biện pháp được ông mô tả là sẽ dẫn tới “làn sóng tháo lui sản xuất từ Trung Quốc tới bang Pennsylvania, từ Hàn Quốc tới bang North Carolina, từ Đức tới bang Georgia”.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngành sản xuất đang đối mặt nhiều vấn đề, trong đó đa số bắt nguồn từ bối cảnh nền kinh tế.
Theo một khảo sát gần đây của Viện Quản trị Cung ứng (ISM) và S&P Global, nhu cầu yếu và lãi suất cao là những thách thức lớn nhất của ngành sản xuất Mỹ. Bối cảnh này không chỉ đẩy các doanh nghiệp sản xuất vào “thế thủ” mà còn là một dấu hiệu đáng lo ngại về tương lai của ngành này.
“Số lượng đơn hàng giảm, tồn kho tăng lên cho thấy xu hướng ảm đạm của ngành sản xuất trong 1,5 năm qua. Đây là một trong những tín hiệu đáng lo ngại nhất mà ngành này ghi nhận kể từ khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008”, ông Chris Williamson, nhà kinh tế trưởng về doanh nghiệp tại S&P Global Market Intelligence, nhận định với hãng tin CNN.
Theo nhiều nhà phân tích, kể cả khi các nhà sản xuất nhận được nhiều hỗ trợ chính sách cũng như được bơm vốn những năm gần đây, họ cũng không vội đẩy mạnh tuyển dụng nhân sự hay tăng cường sản xuất trong bối cảnh triển vọng nhu cầu còn bấp bênh.
Bên cạnh đó, các nhà sản xuất cũng đang chịu áp lực về những bất định liên quan tới cuộc bầu cử tổng thống vào ngày 5/11 tới và môi trường lãi suất cao. Đây là lý do khiến nhiều doanh nghiệp tạm hoãn kế hoạch tuyển dụng và mở rộng sản xuất.
“Nhu cầu vẫn còn yếu. Các doanh nghiệp cũng không muốn đầu tư vốn và hàng tồn kho trong bối cảnh chính sách tiền tệ hiện nay cũng như những bất định xung quanh cuộc bầu cử tổng thống”, ông Timothy Fiore, Chủ tịch Ủy ban khảo sát kinh doanh sản xuất của ISM, nhận xét.
Còn theo S&P Global, các nhà sản xuất hiện vẫn đang đối mặt với áp lực giá dai dẳng. Các loại chi phí gia tăng ăn mòn lợi nhuận khiến họ buộc phải đẩy gánh nặng đó sang cho khách hàng thông qua việc tăng giá hàng hóa.
Một thách thức khác là chi phí lao động tại Mỹ vẫn cao hơn so với nhiều quốc gia khác trên thế giới.
TÌNH HÌNH SẼ CẢI THIỆN NHƯNG CHƯA RÕ KHI NÀO
Dù vậy, tương lai ngành sản xuất Mỹ có những điểm sáng. Gần đây, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) hạ lãi suất lần đầu tiên trong hơn 4 năm và phát tín hiệu sẽ hạ thêm lãi suất từ nay tới cuối năm. Điều này mang lại cú huých lớn cho doanh nghiệp ở mọi quy mô thuộc mọi lĩnh vực.
Lãi suất giảm không chỉ giúp giảm chi phí đi vay cho doanh nghiệp mà còn thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng hoặc ít nhất giữ cho nhu cầu không sụt giảm tới mức đẩy nền kinh tế rơi vào suy thoái.
Tuy nhiên, vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy hoạt động sản xuất tại nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ bắt đầu phục hồi – điều mà nhiều chuyên gia nhận xét là “khó hiểu”.
“Khi Fed bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ, liệu các ngành nghề sẽ phục hồi trở lại? Chúng tôi không dám chắc”, bà Lauren Goodwin, nhà kinh tế kiêm chiến lược gia trưởng về thị trường tại New York Life Investments, viết trong một báo cáo đầu tuần này. “Ngành sản xuất chứng kiến sự sụt giảm xuống hơn 20 tháng qua, dù hoạt động trong lĩnh vực bán dẫn diễn ra sôi động”.
Theo bà Goodwin, việc Fed nới lỏng chính sách tiền tệ có thể giúp chu kỳ kinh tế hiện tại kéo dài lâu hơn nhưng không chắc các hoạt động kinh tế sẽ phục hồi.