Bắt đầu nghiên cứu khung pháp lý về quyền sở hữu đối với tài sản ảo
Khung pháp lý sẽ tập trung nhận diện bản chất pháp lý của tài sản ảo và xây dựng các tiêu chí cụ thể về để từ đó, cấp phép hoạt động cho các sàn giao dịch tài sản mã hóa và các công ty trung gian trong lĩnh vực này tại Việt Nam...
Sáng 6/10, Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức hội thảo ''Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới về quyền sở hữu đối với tài sản ảo và khuyến nghị cho Việt Nam''.
Phát biểu khai mạc hội thảo, TS.Lê Hải Đường, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp cho biết, trên thế giới, hoạt động giao dịch tài sản ảo, tài sản kỹ thuật số đang diễn ra rất sôi động có giá trị cao. Thực tế đã diễn ra nhiều vụ kiện tụng, tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản ảo.
Vì vậy, nhiều nước đã xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự này như Luật Phát triển và Bảo vệ viễn thông của Hàn Quốc quy định rõ về hành vi ăn cắp “tài sản ảo”; luật Bảo vệ lợi ích của người sở hữu “tài sản ảo” của Trung Quốc.
Ngoài ra, các nước như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Canada…đều đã xây dựng khung pháp lý, chính sách quản lý hoạt động kinh doanh, sử dụng tài sản ảo; trong đó tập trung vào bốn vấn đề là xây dựng khung pháp lý quản lý, ban hành chính sách thuế đối với đầu tư, kinh doanh tài sản ảo, có chính sách bảo vệ quyền lợi cho người sở hữu và các giao dịch bị cấm.
Theo TS.Lê Hải Đường, ở Việt Nam pháp luật chưa công nhận quyền sở hữu đối với tài sản ảo, tài sản kỹ thuật số. Tuy nhiên, trên thực tế, các giao dịch trao đổi, mua bán, sử dụng các sản phẩm trên môi trường mạng, đang diễn ra ngày càng nhiều, đặc biệt từ khi có dịch Covid-19. Đồng thời, các tranh chấp liên quan đến trao đổi, mua bán sản phẩm kỹ thuật số liên tục phát sinh.
Vì vậy, Việt Nam cần thiết có những nghiên cứu nhằm đưa ra các khuôn khổ pháp lý phù hợp về quyền sở hữu tài sản ảo, tài sản kỹ thuật số nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc để xác định các giao dịch liên quan đến tài sản ảo với tư cách là tài sản trong giao dịch dân sự để có thể xác lập quyền sở hữu. Đồng thời, tạo cơ sở để giải quyết các tranh chấp dân sự cũng như hành vi phạm tội đối với tài sản ảo khi các vụ án hình sự đối với hành vi trộm cắp, lừa đảo tài sản ảo ngày càng gia tăng.
“Với những lý do trên, Viện Nghiên cứu lập pháp đã phê duyệt và ký hợp đồng với Ban chủ nhiệm đề tài để triển khai nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ: “Chính sách, pháp luật về quyền sở hữu đối với tài sản ảo: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam” nhằm đưa ra các kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; bảo vệ tốt quyền dân sự của công dân”, ông Đường nhấn mạnh.
Cũng tại hội thảo đa số các chuyên gia cho rằng, thuật ngữ Bitcoin, tiền ảo, tiền mã hóa ngày càng phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội. Mặc dù nhiều tổ chức quốc tế như Cơ quan đặc nhiệm tài chính quốc tế - FATF, NHTW Châu Âu – ECB, Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF, Hội đồng ổn định tài chính quốc tế đã đề cập đến khái niệm về tiền ảo, tiền mã hóa, tài sản mã hóa, tiền mã hóa ổn định giá trị, tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương.
Tuy nhiên, ở tầm quốc gia, thế giới có ít quốc gia ban hành văn bản quy phạm pháp luật riêng về tài sản mã hóa nói chung, tiền mã hóa (gồm cả tiền mã hóa không có đảm bảo như Bitcoin và tiền mã hóa ổn định giá trị), tiền ảo, tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương.
Theo các chuyên gia, trước bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay, việc nghiên cứu kinh nghiệm quản lý tiền mã hóa của một số quốc gia trên thế giới để đề xuất một khuôn khổ chính sách quản lý, giám sát tiền mã hóa phù hợp cho Việt Nam là vô cùng cần thiết. Thông qua việc tổng hợp các kinh nghiệm quốc tế, các đề xuất về quản lý, giám sát tiền mã hóa cho Việt Nam có thể giúp bảo vệ người tiêu dùng khỏi các nguy cơ lừa đảo, góp phần ổn định tài chính và giảm thiểu rủi ro cho nền kinh tế.
Trên cơ sở đó, các chuyên gia đưa ra nhiều kiến nghị, đề xuất liên quan đến quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật về tài sản ảo tại Việt Nam. Trong đó, tập trung nhận diện bản chất pháp lý của tài sản ảo, tài sản mã hóa thông qua làm rõ những khái niệm liên quan tới tiền mã hóa, tiền ảo tại Việt Nam; Xây dựng các tiêu chí cụ thể về mặt pháp lý và công nghệ để từ đó, cấp phép hoạt động cho các sàn giao dịch tài sản mã hóa và các công ty trung gian trong lĩnh vực này tại Việt Nam; Xây dựng khung pháp lý phù hợp đối với tài sản ảo; Xác định rõ vấn đề thừa kế di sản là tài sản ảo…
Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng lưu ý, cần có sự phối hợp, tham vấn, đối thoại trực tiếp giữa các chuyên gia pháp lý, kinh tế và chuyên gia công nghệ thông tin để đảm bảo những quy định về tài sản ảo có tính khả thi; linh hoạt trong việc tiếp cận các vấn đề hiện tại và tương lai; hoàn thiện các quy định pháp luật về thuế liên quan đến tài sản ảo…