Có nên đánh thuế thu nhập trên cổ phiếu thưởng?
Gần đây, đã có không ít ý kiến trao đổi về việc có nên tính thu nhập chịu thuế bao gồm cả giá trị của cổ phiếu thưởng
Gần đây, đã có không ít ý kiến trao đổi về việc có nên tính thu nhập chịu thuế bao gồm cả giá trị của cổ phiếu thưởng.
Nhìn chung, hiện có hai luồng ý kiến trái ngược nhau.
Ý kiến của nhiều nhà đầu tư và chuyên gia kinh tế cho rằng tại thời điểm cổ tức trả bằng cổ phiếu thưởng, thu nhập của nhà đầu tư không có gì thay đổi. Đối với doanh nghiệp việc hạch toán đơn giản chỉ là sự phân lọai lại tài sản, chuyển phần nguồn vốn chủ sở hữu hình thành từ thu nhập để lại họặc thặng dư vốn sang phần vốn góp của cổ đông. Vì lẽ vậy, cổ phiếu thưởng chưa nên đưa vào thu nhập chịu thuế tại thời điểm này.
Tuy nhiên, điểm 2, khoản e trong Thông tư 84/2008 của Bộ Tài chính ngày 30/9/2008 xác định thu nhập chịu thuế bao gồm cả cổ phiếu thưởng và giá trị thưởng bằng gía trị ghi trên sổ sách kế toán của đơn vị trả thưởng. Như vậy, quan điểm của Bộ Tài chính đã coi cổ phiếu thưởng là thu nhập của nhà đầu tư ngay khi cổ phiếu được chia.
Bản chất của sắc thuế?
Tài sản và thu nhập là hai khái niệm rất cơ bản trong kế toán. Theo định nghĩa của Tổ chức Kế toán Quốc tế (IASB) thì tài sản được định nghĩa bao gồm bất kể thứ gì mà cá nhân/doanh nghiệp sở hữu mà chúng có thể được chuyển hóa thành tiến họăc mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai.
Theo đó, cổ phiếu mà nhà đầu tư/doanh nghiệp sở hữu được coi là tài sản. Chỉ khi nào nhà đầu tư đem bán cổ phiếu được chia tức là đã chuyển đổi cổ phiếu thành tiến thì lúc đó khoản tiền thu được mới được phân lọai là thu nhập.
Khi công ty thực hiện việc chia cổ tức bằng cổ phiếu thì cổ phiếu của công ty bị pha loãng và giá trị của cổ phiếu tại thời điểm chia sẽ giảm tương ứng với mức độ pha loãng. Nhà đầu tư có thêm nhiều cổ phiếu nhưng giá trị thị trường của cổ phiếu giảm. Tài sản do đó không thay đổi và theo khái niệm về thu nhập thì nhà đầu tư chưa có bất kỳ lợi ích kinh tế nào tại thời điểm nhận cổ phiếu, tức là thu nhập về cổ phiếu bằng 0.
Do vậy, nếu đặt ra việc đánh thuế thu nhập vào cổ phiếu thưởng e rằng không đúng với bản chất của sắc thuế, vì thuế thu nhập nhưng lại đánh vào tài sản và tài sản lại chưa tạo ra thu nhập.
Đối với thuế thu nhập cá nhân, cơ sở của sắc thuế này không hẳn dựa trên bản chất kinh tế của họat động trao đổi và kinh doanh mà phần nhiều dựa trên quan điểm chính trị và triết lý công bằng xã hội. Vì vậy mỗi quốc gia, mỗi giai đọan phát triển của xã hội, luật thuế thu nhập cá nhân được điều chỉnh cho phù hợp.
Khi doanh nghiệp trả cổ tức cho nhà đầu tư bằng cổ phiếu, hoạt động này không sử dụng hay tiêu hao nguồn lực nào của xã hội. Mặt khác họat động này không tạo ra thu nhập cho người sở hữu. Theo triết lý và bản chất của sắc thuế như đã phân tích ở trên, cổ phiếu thưởng này sẽ không là đối tượng chịu thuế của bất kỳ luật thuế nào.
Khi nhà đầu tư bán cố phiếu, tức là có sự chuyển dịch sở hữu từ chủ thể này sang chủ thể khác trong xã hội. Hoạt động này có thể xem như có sử dụng nguồn lực xã hội. Nhà đầu tư do đó phải trả thuế cho việc chuyển nhượng quyền sở hữu.
Thực ra nhà đầu tư đã gián tiếp trả thuế thông qua phí giao dịch (phí môi giới trả cho công ty chứng khoán). Nếu nhà đầu tư bán cổ phiếu có lãi thì khoán lãi này sẽ được tính vào thu nhập chịu thuế theo luật thuế thu nhập cá nhân. Điều này hoàn toàn công bằng và hợp lý.
Chỉ đánh thuế khi chuyển nhượng
Theo thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính, nhà đầu tư khi chuyển nhượng chứng khoán có hai sự lựa chọn hoặc là phải nộp 0,1% tính trên giá trị chứng khoán chuyển nhượng hoăc là 20% tính trên thu nhập thuần mua bán chứng khoán.
Nếu nhà đầu tư lựa chọn theo phương thức đầu, tức là họ đã mặc nhiên chấp nhận việc kinh doanh chứng khoán của họ là có lãi để đổi lấy sự đơn giản về mặt thủ tục tính thuế dù biết rằng mức thuế 0,1% tính trên giá trị giao dịch là rất lớn và rủi ro thua lỗ là rất khó tránh khỏi. Mức thuế phải nộp 0,1% tính trên giá trị giao dịch lớn đến mức nào người viết bài này sẽ có dịp trao đổi thêm trong một bài viết khác.
Những gì trao đổi ở trên gợi ý Bộ Tài chính nên xem xét lại và chưa nên đưa cổ phiếu thưởng vào thu nhập chịu thuế. Chỉ khi nào nhà đầu tư thực hiện việc chuyển nhượng cổ phiếu, thì mới đưa vào thu nhập chịu thuế.
Với cách làm này thì cơ quan thuế không cần phải theo dõi khi nào nhà đầu tư nhận cổ phiếu thưởng còn tổ chức trả cổ phiếu thưởng không cần phải theo dõi hay trích trước thuế thu nhập cổ phiếu thưởng. Hệ thống quản lý của các công ty chứng khoán có thể đáp ứng được yêu cầu quản lý giá đầu vào và đầu ra của cổ phiếu giao dịch nên việc thu thuế theo bất kỳ phương thức nào cũng không quá khó khăn về mặt kỹ thuật.
Nhưng quan trọng hơn cả là luật thuế thu nhập cá nhân áp dụng đối với thu nhập từ đầu tư chứng khoán đã thể hiện đúng bản chất, đúng thời điểm áp dụng. Còn nhà đầu tư chứng khoán cảm nhận được sự công bằng và hợp lý của chính sách, tự hào về việc họ đã tham gia đóng thuế một khi kinh doanh chứng khoán có lãi.
* Tác giả bài viết là Giám đốc Phân tích đầu tư - Công ty Cổ phần Chứng khoán Tân Việt (TVSI)
Nhìn chung, hiện có hai luồng ý kiến trái ngược nhau.
Ý kiến của nhiều nhà đầu tư và chuyên gia kinh tế cho rằng tại thời điểm cổ tức trả bằng cổ phiếu thưởng, thu nhập của nhà đầu tư không có gì thay đổi. Đối với doanh nghiệp việc hạch toán đơn giản chỉ là sự phân lọai lại tài sản, chuyển phần nguồn vốn chủ sở hữu hình thành từ thu nhập để lại họặc thặng dư vốn sang phần vốn góp của cổ đông. Vì lẽ vậy, cổ phiếu thưởng chưa nên đưa vào thu nhập chịu thuế tại thời điểm này.
Tuy nhiên, điểm 2, khoản e trong Thông tư 84/2008 của Bộ Tài chính ngày 30/9/2008 xác định thu nhập chịu thuế bao gồm cả cổ phiếu thưởng và giá trị thưởng bằng gía trị ghi trên sổ sách kế toán của đơn vị trả thưởng. Như vậy, quan điểm của Bộ Tài chính đã coi cổ phiếu thưởng là thu nhập của nhà đầu tư ngay khi cổ phiếu được chia.
Bản chất của sắc thuế?
Tài sản và thu nhập là hai khái niệm rất cơ bản trong kế toán. Theo định nghĩa của Tổ chức Kế toán Quốc tế (IASB) thì tài sản được định nghĩa bao gồm bất kể thứ gì mà cá nhân/doanh nghiệp sở hữu mà chúng có thể được chuyển hóa thành tiến họăc mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai.
Theo đó, cổ phiếu mà nhà đầu tư/doanh nghiệp sở hữu được coi là tài sản. Chỉ khi nào nhà đầu tư đem bán cổ phiếu được chia tức là đã chuyển đổi cổ phiếu thành tiến thì lúc đó khoản tiền thu được mới được phân lọai là thu nhập.
Khi công ty thực hiện việc chia cổ tức bằng cổ phiếu thì cổ phiếu của công ty bị pha loãng và giá trị của cổ phiếu tại thời điểm chia sẽ giảm tương ứng với mức độ pha loãng. Nhà đầu tư có thêm nhiều cổ phiếu nhưng giá trị thị trường của cổ phiếu giảm. Tài sản do đó không thay đổi và theo khái niệm về thu nhập thì nhà đầu tư chưa có bất kỳ lợi ích kinh tế nào tại thời điểm nhận cổ phiếu, tức là thu nhập về cổ phiếu bằng 0.
Do vậy, nếu đặt ra việc đánh thuế thu nhập vào cổ phiếu thưởng e rằng không đúng với bản chất của sắc thuế, vì thuế thu nhập nhưng lại đánh vào tài sản và tài sản lại chưa tạo ra thu nhập.
Đối với thuế thu nhập cá nhân, cơ sở của sắc thuế này không hẳn dựa trên bản chất kinh tế của họat động trao đổi và kinh doanh mà phần nhiều dựa trên quan điểm chính trị và triết lý công bằng xã hội. Vì vậy mỗi quốc gia, mỗi giai đọan phát triển của xã hội, luật thuế thu nhập cá nhân được điều chỉnh cho phù hợp.
Khi doanh nghiệp trả cổ tức cho nhà đầu tư bằng cổ phiếu, hoạt động này không sử dụng hay tiêu hao nguồn lực nào của xã hội. Mặt khác họat động này không tạo ra thu nhập cho người sở hữu. Theo triết lý và bản chất của sắc thuế như đã phân tích ở trên, cổ phiếu thưởng này sẽ không là đối tượng chịu thuế của bất kỳ luật thuế nào.
Khi nhà đầu tư bán cố phiếu, tức là có sự chuyển dịch sở hữu từ chủ thể này sang chủ thể khác trong xã hội. Hoạt động này có thể xem như có sử dụng nguồn lực xã hội. Nhà đầu tư do đó phải trả thuế cho việc chuyển nhượng quyền sở hữu.
Thực ra nhà đầu tư đã gián tiếp trả thuế thông qua phí giao dịch (phí môi giới trả cho công ty chứng khoán). Nếu nhà đầu tư bán cổ phiếu có lãi thì khoán lãi này sẽ được tính vào thu nhập chịu thuế theo luật thuế thu nhập cá nhân. Điều này hoàn toàn công bằng và hợp lý.
Chỉ đánh thuế khi chuyển nhượng
Theo thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính, nhà đầu tư khi chuyển nhượng chứng khoán có hai sự lựa chọn hoặc là phải nộp 0,1% tính trên giá trị chứng khoán chuyển nhượng hoăc là 20% tính trên thu nhập thuần mua bán chứng khoán.
Nếu nhà đầu tư lựa chọn theo phương thức đầu, tức là họ đã mặc nhiên chấp nhận việc kinh doanh chứng khoán của họ là có lãi để đổi lấy sự đơn giản về mặt thủ tục tính thuế dù biết rằng mức thuế 0,1% tính trên giá trị giao dịch là rất lớn và rủi ro thua lỗ là rất khó tránh khỏi. Mức thuế phải nộp 0,1% tính trên giá trị giao dịch lớn đến mức nào người viết bài này sẽ có dịp trao đổi thêm trong một bài viết khác.
Những gì trao đổi ở trên gợi ý Bộ Tài chính nên xem xét lại và chưa nên đưa cổ phiếu thưởng vào thu nhập chịu thuế. Chỉ khi nào nhà đầu tư thực hiện việc chuyển nhượng cổ phiếu, thì mới đưa vào thu nhập chịu thuế.
Với cách làm này thì cơ quan thuế không cần phải theo dõi khi nào nhà đầu tư nhận cổ phiếu thưởng còn tổ chức trả cổ phiếu thưởng không cần phải theo dõi hay trích trước thuế thu nhập cổ phiếu thưởng. Hệ thống quản lý của các công ty chứng khoán có thể đáp ứng được yêu cầu quản lý giá đầu vào và đầu ra của cổ phiếu giao dịch nên việc thu thuế theo bất kỳ phương thức nào cũng không quá khó khăn về mặt kỹ thuật.
Nhưng quan trọng hơn cả là luật thuế thu nhập cá nhân áp dụng đối với thu nhập từ đầu tư chứng khoán đã thể hiện đúng bản chất, đúng thời điểm áp dụng. Còn nhà đầu tư chứng khoán cảm nhận được sự công bằng và hợp lý của chính sách, tự hào về việc họ đã tham gia đóng thuế một khi kinh doanh chứng khoán có lãi.
* Tác giả bài viết là Giám đốc Phân tích đầu tư - Công ty Cổ phần Chứng khoán Tân Việt (TVSI)