Doanh thu viễn thông giảm mạnh, điện thoại cố định chỉ còn cầm chừng
Cả nước có hơn 123,6 triệu thuê bao di động trên 97,6 triệu dân, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 doanh thu viễn thông đã giảm mạnh 13,6%, đạt 315.200 tỉ đồng...
Việt Nam là một trong những thị trường viễn thông có tốc độ tăng trưởng nhanh trong khu vực và trên thế giới trong nhiều năm trở lại đây.
Theo Tổng cục Thống kê, cuối năm 2005, Việt Nam mới chỉ có 15,8 triệu thuê bao điện thoại, bao gồm 8,7 triệu thuê bao điện thoại di động và 7,1 triệu thuê bao điện thoại cố định và 210.000 thuê bao Internet. Nhưng chỉ 5 năm sau đó, cả nước đã có 125,9 triệu thuê bao điện thoại, gấp gần 8 lần. Trong đó có 111,5 triệu thuê bao điện thoại di động, gấp 12,8 lần và 14,4 triệu thuê bao điện thoại cố định, gấp 2 lần. Số lượng thuê bao Internet có tốc độ tăng rất nhanh trong giai đoạn này với 3,7 triệu thuê bao Internet băng rộng cố định, gấp 17 lần năm 2005.
Nhưng sau đó, số thuê bao điện thoại lại giảm dần, giảm mạnh nhất là điện thoại cố định. Giai đoạn 2012 - 2015, lượng thuê bao điện thoại đạt mức tăng bình quân 0,5%/năm, trong đó lượng thuê bao điện thoại di động tăng 2,1%/năm và thuê bao cố định giảm 17,7%/năm. Ngược lại, số thuê bao Internet băng rộng cố định vẫn tăng khá cao, bình quân mỗi năm tăng gần 16%, đạt 7,7 triệu thuê bao vào năm 2015.
Dù vậy, trong những năm gần đây, thị trường viễn thông đang đối mặt với tình trạng bão hòa của các dịch vụ viễn thông truyền thống. Số thuê bao điện thoại cố định có xu hướng giảm mạnh. Đến cuối năm 2020 chỉ còn 3,2 triệu thuê bao, giảm 41% so với cùng thời điểm năm 2015 và giảm đến 78% so với cùng thời điểm năm 2010.
Hoạt động của mảng dịch vụ điện thoại cố định hiện nay chỉ còn mang tính cầm chừng, chủ yếu phục vụ khối các cơ quan, tổ chức chính quyền, các doanh nghiệp.
Đối với thuê bao điện thoại di động, tính đến cuối năm 2020, cả nước có 123,6 triệu thuê bao, cũng chỉ gần bằng số thuê bao của năm 2015. Ngoài nguyên nhân nhu cầu sử dụng gần đây giảm còn do các nhà mạng thực hiện xử lý SIM rác theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông.
Số thuê bao Internet băng rộng tiếp tục duy trì mức tăng cao trong nhiều năm khi cuối năm vừa qua đã có 16,7 triệu thuê bao, gấp 2,2 lần năm 2015, bình quân mỗi năm tăng 16,9%.
Tốc độ tăng trưởng của thị trường viễn thông còn thể hiện qua con số doanh thu, theo đó doanh thu viễn thông năm 2010 đạt 177.800 tỉ đồng, duy trì tốc độ tăng trên 40% trong nhiều năm trước đó. Đến giai đoạn 2011 - 2015, doanh thu bưu chính viễn thông tiếp tục duy trì mức tăng khá cao, năm 2015 tăng gần 60% so với năm 2010, bình quân mỗi năm tăng gần 10%.
Đến giai đoạn 2016 - 2018, doanh thu viễn thông duy trì mức tăng khá gần 8% so với năm trước nhưng đến năm 2019 chỉ còn tăng 2,6%. Riêng năm 2020 do ảnh hưởng của dịch Covid-19 doanh thu viễn thông đã giảm mạnh 13,6%, chỉ đạt 315.200 tỉ đồng.
Thị phần viễn thông cạnh tranh khá quyết liệt bằng việc tối ưu hóa các dịch vụ giá trị gia tăng trên số thuê bao hiện có. Ngoài ra, doanh thu từ dịch vụ viễn thông truyền thống cũng ảnh hưởng lớn bởi sự phổ biến của các ứng dụng OTT nhắn tin, gọi điện miễn phí.
Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đã đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành chương trình về Chuyển đổi số quốc gia, là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp chủ động khai thác triệt để các cơ hội mà cuộc cách mạng công nghệ mang lại.
Với mục tiêu “Việt Nam thuộc nhóm 70 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI)”; “Kinh tế số chiếm 20% GDP”; “Hạ tầng mạng băng rộng cáp quang phủ trên 80% hộ gia đình, 100% xã” và “Phổ cập dịch vụ mạng di động 4G/5G và điện thoại di động thông minh” thì các doanh nghiệp viễn thông, doanh nghiệp số có rất nhiều dư địa để phát triển.