Lời giải cho bài toán nợ xấu
Chưa giải pháp nào được đánh giá là hiệu quả, bởi lẽ, thực trạng nợ nần hiện nay vẫn còn nhiều “góc khuất” đáng ngại
Để doanh nghiệp và ngân hàng tự xử lý nợ xấu theo quy luật sinh tồn của kinh tế thị trường hay phải thông qua một định chế tài chính được Nhà nước hỗ trợ vốn? Chưa giải pháp nào được đánh giá là hiệu quả, bởi lẽ, thực trạng nợ nần hiện nay vẫn còn nhiều “góc khuất” đáng ngại.
Lần lượt những số liệu nợ xấu khác biệt được nhiều tổ chức, đơn vị công bố trong thời gian qua khiến giới phân tích cũng “tù mù” thông tin. PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi, Trường Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực VietinBank cho rằng, sự khác biệt lớn này là do việc phân loại nợ xấu ở Việt Nam dựa vào Tiêu chuẩn kế toán Việt Nam (VAS) trong khi các tổ chức quốc tế sử dụng Tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IAS) để phân loại nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam.
Để lâu không mất đi mà chỉ xấu đi
Bà Mùi cũng khẳng định, không phải 100% nợ xấu doanh nghiệp là của ngân hàng hay 100% nợ xấu ngân hàng là của doanh nghiệp, mà đa phần nợ xấu ngân hàng là của doanh nghiệp, đặc biệt khi các ngân hàng và doanh nghiệp có mối quan hệ mật thiết, phụ thuộc lẫn nhau do sở hữu chéo khiến nguồn lực dễ bị phân bổ sai lệch, bất hợp lý, nợ xấu tăng lên là tất yếu.
Trong khi đó, chuyên gia kinh tế Dương Thu Hương cho rằng số lượng nợ xấu không cố định, nếu các doanh nghiệp gặp khó khăn nợ xấu chắc chắn tăng. Nhất là các khoản đang hoãn, giãn, đảo nợ, nếu không giải quyết được. Nợ xấu tồn tại từ lâu nhưng cho đến nay mới quan tâm đến, không nên hốt hoảng bởi thực tế có lúc nợ xấu còn hơn hiện nay.
Theo bà Hương, vấn đề trước mắt là cần xác định rõ nợ xấu thực chất bao nhiêu, trước khi tìm phương hướng giải quyết. Cụ thể hơn, cần xác định tiêu chí nợ xấu là nợ đến giai đoạn trả nợ không trả được, nhưng không kể đến hoãn nợ, giãn nợ, đảo nợ... vẫn đang tiềm ẩn trở thành nợ xấu. “Để tính toán cần tính cả dư nợ của hoãn nợ, giãn nợ, đảo nợ, nếu chỉ mỗi con số nợ tới hạn không trả được thì không được”, bà Hương khẳng định.
Trong khi số liệu và cơ cấu nợ xấu còn khoảng cách giữa các đơn vị công bố, quan điểm xử lý vấn đề này cũng có nhiều điểm tranh cãi. Theo ông Trương Đình Tuyển - thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia - các tổ chức tín dụng phải lập cho đủ quỹ dự phòng rủi ro, nếu trước đây chưa lập đủ thì nay phải truy lại và phải dùng quỹ này để xử lý nợ xấu.
Ông Tuyển cũng nếu quan điểm các ngân hàng nào xử lý được nợ xấu thì cứ làm, nhưng nếu trông chờ vào các ngân hàng và công ty mua bán nợ của Bộ Tài chính (DATC) thì quá trình xử lý càng lâu.
“Nợ xấu để lâu không mất đi mà chỉ xấu đi. Do đó, dứt khoát phải thành lập một định chế xử lý nợ xấu quốc gia”, ông Tuyển nói. Vị chuyên gia này cho rằng Nhà nước cũng phải có quy định mức chiết khấu khi mua bán nợ xấu đối với từng nhóm nợ. Đây là quy định bắt buộc. Trong điều kiện ấy, cho phép tổ chức tín dụng và công ty thỏa thuận nhưng cho thời gian thỏa thuận tối đa hoặc áp dụng quy định về mức chiết khấu.
Đồng tình với quan điểm xử lý nợ xấu phải bắt đầu từ các chủ thể có liên quan trực tiếp đến món nợ, TS. Vũ Nhữ Thăng, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính) cho rằng việc giao cho các công ty mua bán nợ của ngân hàng thương mại xử lý trước cũng là hợp lý bởi các công ty này hoàn toàn chủ động và hiểu rõ về khoản nợ của mình.
Tuy vậy, ông Thăng cũng phân tích, dù đã có hơn 20 công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng (AMC) nhưng vai trò của các công ty này rất mờ nhạt. Việc ngân hàng mua lại nợ của nhau tức là nợ xấu chạy vòng vo từ ngân hàng này sang ngân hàng khác.
“Điều này không khác việc chuyển nợ từ “túi phải” sang “túi trái”, làm méo mó khoản nợ”, ông Thăng nhấn mạnh.
Có nên cứu các ngân hàng?
Khác với cách tiếp cận trên, xem xét nợ xấu dưới góc độ sự sinh tồn của các ngân hàng, TS.Quách Mạnh Hào - Phó tổng giám đốc Công ty Chứng khoán MB nêu quan điểm: “Chẳng có lý do để cứu các ngân hàng. Khi ngân hàng gặp rủi ro do lựa chọn đối nghịch hay đạo đức thì phát sinh nợ xấu là lỗi của ngân hàng”.
Theo phân tích của ông Hào, khi cứu, giải quyết nợ xấu thì chúng ta có hình dung rằng bây giờ hoạt động ngân hàng đang diễn ra thế nào? Rất nhiều ngân hàng hiện nay chẳng khác mấy so với mô hình “ponzi - dùng tiền người này trả người khác”. Nhiều ngân hàng nhỏ đầu tư vào những dự án dài hạn bằng tiền ngắn hạn. Họ sa lầy vào đó thì các khoản đầu tư này trở thành nợ xấu. Và trong thời gian dài họ huy động lãi suất cao.
“Về bản chất tài sản sinh lời của họ không có. Với cách tiếp cận như vậy thì nên cứu hay không?”, ông Hào đặt câu hỏi.
Một điểm quan trọng được ông Hào nhấn mạnh là trong bối cảnh các ngân hàng đang có xu hướng tiến tới mô hình ponzi thì chúng lại được sự bảo lãnh rất lớn của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước là không để ngân hàng nào phá sản.
Nhìn ở khía cạnh khác, ông Hào cho rằng không nên e ngại việc người dân gửi tiền vào những ngân hàng có rủi ro nên khi mất tiền sẽ gây ra những bất ổn xã hội.
“Người dân quyết định gửi tiền vào những ngân hàng rủi ro để được nhận lãi suất cao. Rõ ràng là họ chấp nhận rủi ro rồi. Cho nên, chúng ta không thể bảo lãnh hành vi gửi tiền vào ngân hàng rủi ro cao, được hưởng lãi suất cao và bây giờ anh lại chắc chắn là không mất tiền. Như vậy là chúng ta đang khuyến khích cho những rủi ro trong nền kinh tế”, ông Hào nhấn mạnh.
(Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam)
(Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam)