Ngành xây dựng vẫn “khát” lao động
Môi trường làm việc khắc nghiệt cùng chế độ tiền lương kém hấp dẫn nên ngành xây dựng rất khó tìm kiếm lao động. Phần lớn lao động hiện nay là ngắn hạn (chiếm 75%). Họ chủ yếu làm việc lúc nông nhàn, theo thời vụ, dự án, công trình…
Chia sẻ tại sự kiện gặp mặt đầu xuân giữa các doanh nghiệp ngành xây dựng, ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam (VACC), Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Đầu tư bất động sản Toàn Cầu (GP.Invest), cho biết năm 2024, GDP ngành xây dựng dự báo đạt 6,5% nhưng tình hình 2 tháng đầu năm chưa ghi nhận dấu hiệu thay đổi. Ngành xây dựng vẫn gặp nhiều khó khăn, trong đó, tình trạng khan hiếm lao động diễn khá phổ biến, nhất là lao động có tay nghề. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến mục tiêu đẩy nhanh tiến độ dự án.
LÀM VIỆC CHỦ YẾU THEO THỜI VỤ
Hiện nay, lao động của ngành xây dựng chủ yếu gồm lao động ngắn hạn, chiếm 75%. Họ xuất phát từ lao động nông nhàn, làm việc theo thời vụ, dự án, công trình và phần lớn không có tay nghề. Thực tế, tại dự án sân bay Long Thành, 48% lao động Việt Nam chỉ làm công tác san nền cùng một số việc thủ công khác. Còn liên quan đến kỹ thuật xây dựng, lắp ráp cột, kè, hàn… hầu hết do thợ nước ngoài đảm nhận. “Chúng ta thua ngay trên sân nhà khi không đủ đội ngũ công nhân lành nghề. Hơn nữa, những dự án có nhiều người nước ngoài tham gia cũng không thuộc dạng hiếm. Đây trở thành điểm yếu của doanh nghiệp xây dựng Việt Nam”, ông Hiệp bày tỏ.
Ngoài ra, Chủ tịch VACC cũng chia sẻ rằng tìm kiếm lao động đã khó, bổ sung được lao động lành nghề càng khó hơn. Từng có đơn vị làm dự án vì không tuyển đủ công nhân vốn trước đây lấy trong các đội ở Thanh Hóa, Ninh Bình, nên bắt buộc phải thuê người dân tộc. Do đó, khi tới công trường thi công thì toàn công trường nói tiếng dân tộc và đương nhiên, họ chẳng qua bất cứ trường lớp đào tạo nào. Hệ quả khiến cả kỹ sư và nhà quản lý vô cùng vất vả khi phải cầm tay chỉ việc.
Về thực trạng này, ông Nguyễn Đăng Vượng, Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần EuroWindow, nhận xét không chỉ tồn tại ở Việt Nam mà là vấn đề chung của nhiều nước Đông Nam Á, ngay cả tại một số quốc gia hàng đầu như Hàn Quốc, Đài Loan.
Theo ông Vượng, ngoài máy móc và công nghệ thiết kế, lực lượng lao động đóng vai trò vô cùng quan trọng, nhưng so với doanh nghiệp xây dựng, doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp sản suất thu hút lao động tốt hơn. Bởi cùng một lực lượng lao động song môi trường làm việc của ngành xây dựng rất khắc nghiệt, vừa thi công giữa môi trường nắng nóng, lạnh giá, mưa gió lại vừa nguy hiểm nên lao động có xu hướng tham gia vào doanh nghiệp điện tử, may mặc, chế biến… Chính điều này đã gây khó cho ngành xây dựng, trong khi phần lớn lao động quyết định chất lượng công trình.
Bên cạnh đó, ông Cao Tùng Lâm, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần xây dựng Phục Hưng Holdings, nhìn nhận chính sách tiền lương của ngành xây dựng cũng chưa hấp dẫn người lao động. Hiện nay, hầu hết các tỉnh thành đều phát triển khu công nghiệp với mức lương lao động trên dưới 10 triệu đồng/tháng, họ hoàn toàn thoải mái làm việc ngay ở địa phương thay vì di chuyển đi nơi khác. Tương tự, cùng một công việc kỹ sư người nước ngoài đạt trình độ không mấy nhỉnh hơn lại hưởng mức lương khoảng 10.000 USD, còn kỹ sư Việt Nam chỉ 20, 30 triệu là chênh lệch quá lớn.
“Trước kia, xây dựng tòa nhà 10 tầng thấy khó khăn nhưng ngày nay có thể xây dựng một tòa nhà 40 đến 50 tầng. Thậm chí Landmark 81 của những năm 2018-2019 đã tự chủ trong quản lý. Điều đó thể hiện sự tiến bộ của ngành xây dựng, song chỉ một số doanh nghiệp mới phát huy được hết năng lực của công nhân, cán bộ, kỹ sư. Thực tế, môi trường, điều kiện động lực nhằm khuyến khích, thúc đẩy lao động quá ít, dẫn đến lực lượng lao động Việt Nam phát triển lên thành lao động tay nghề cao vẫn hạn chế ở ngành xây dựng”, ông Lâm khẳng định.
MUỐN PHÁT TRIỂN PHẢI LÀM CHỦ CÔNG NGHỆ
Từ thực tế đó, nhiều ý kiến cho rằng để khuyến khích, thu hút người lao động tham gia nhiều hơn vào lĩnh vực xây dựng, cần tập trung vào chính sách tiền lương, chính sách khuyến khích đối với người lao động có tay nghề?
Riêng về đào tạo lao động, lãnh đạo EuroWindow chia sẻ đơn vị này gần như duy trì 100% lao động tự đào tạo chứ không thuê thời vụ, hợp đồng ngắn hạn. Tuy nhiên dù đầu vào tiêu tốn thời gian, kinh phí nhưng sau đào tạo họ lại chuyển đi. Do đó, Hiệp hội cần kiến nghị với Tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao động, thương binh và xã hội, Chính phủ phải có chương trình đào tạo, định hướng lực lượng lao động cho nhà thầu xây dựng, nhằm đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Cần thiết nhà thầu sẽ chuẩn bị ngân sách đặt hàng các trường dạy nghề lao động cho chính doanh nghiệp và cam kết sẽ sử dụng lao động.
Đồng quan điểm, ông Hiệp cho biết, Hiệp hội cũng nhìn nhận phải hợp tác với Tổng cục Dạy nghề để có hướng đào tạo lâu dài nên đã ký kết với Tổng cục Dạy nghề, phấn đấu đưa chương trình đào tạo của công nhân xây dựng vào chương trình đào tạo quốc gia. Ngoài ra, ngành xây dựng muốn phát triển, tất yếu phải làm chủ được công nghệ kỹ thuật, song doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế bởi vốn nhỏ nên việc chủ động tổ chức trường lớp đào tạo gặp khó. Như vậy, phải khuyến khích doanh nghiệp lớn đầu tư, tổ chức đào tạo rồi cung cấp lại lao động cho doanh nghiệp nhỏ. Chỉ có thế mới đủ đội ngũ công nhân xây dựng lành nghề.
Bổ sung thêm, ông Lâm cho rằng vẫn rất cần chế tài nhằm kiểm soát lao động, về lâu dài, tỉ lệ sử dụng lao động có chứng chỉ nghề cần tăng dần theo thời gian. Dù không thể đạt ngay 50% nhưng nên quy định tăng tỉ lệ bắt buộc của các gói thầu phải sử dụng lao động có nghề. Giống như đá bóng chỉ giới hạn được bao nhiêu cầu thủ ngoại. Hơn nữa, để thuận lợi, doanh nghiệp đề xuất thành lập đơn vị chuyên xử lý bảo hiểm, chứng từ của công nhân.
Theo ông Lâm, các nhà thầu xây dựng cần tính toán không chỉ phát triển ở trong nước mà phải nghĩ đến việc xuất khẩu lao động, xuất khẩu xây dựng. Hiện nay, ở nhiều đơn vị đã xuất hiện xu hướng này bởi một số địa phương, đất nước đang có nhu cầu lao động xây dựng với số lượng lớn để tái thiết đất nước.
Tuy nhiên, với vấn đề lao động, vẫn còn ý kiến băn khoăn khi chúng ta đều thống nhất phải đi con đường chính thống, ký hợp đồng dài hạn với lao động có tay nghề. Mặc dù các nhà thầu xây dựng gánh vác chủ yếu việc thực hiện tổng vốn đầu tư toàn xã hội (khoảng 60 -65% GDP), nhưng việc lại không đều. Nếu trong thời gian dài không có việc mà vẫn phải duy trì, trả lương cho đội ngũ này thì rất khó cho doanh nghiệp. Đây là bài toán mà các doanh nghiệp ngành xây dựng cần tiếp tục đi tìm lời giải.