Tìm điểm cân bằng trong điều hành chính sách tiền tệ
Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, khi điều hành lãi suất, các công cụ chính sách tiền tệ phải căn cứ vào mục tiêu kiểm soát lạm phát, dự báo xu hướng lạm phát thế giới, trong nước và yêu cầu ổn định tỷ giá, an toàn hệ thống…
Phát biểu tại phiên họp sáng 16/10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng giải thích khá chi tiết về hoạt động điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2022 và 9 tháng năm 2023.
Tại phiên họp, đại diện Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã trình bày báo cáo thẩm tra giữa kỳ đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 – 2025.
Theo đó, báo cáo nhận định lãi suất cao trong những tháng cuối năm 2022, đầu năm 2023 gây khó khăn cho doanh nghiệp. Ngoài ra, trong bối cảnh doanh nghiệp khó khăn vào cuối năm 2022, việc điều chỉnh chỉ tiêu tín dụng được thực hiện quá chậm.
Trả lời vấn đề này, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng, vấn đề nêu trên là nhìn từ góc độ riêng lẻ, còn việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước theo tinh thần bám sát yêu cầu của Quốc hội và trên cục diện tổng thể của nền kinh tế. Đó là phải giảm lãi suất, đảm bảo ổn định tiền tệ, ngoại hối và hoạt động hệ thống ngân hàng.
Thống đốc cho biết trong những tháng đầu năm 2022, xét thấy có thể kiểm soát lạm phát theo mục tiêu của Quốc hội đề ra nên những tháng đầu năm vẫn giữ nguyên lãi suất điều hành. Tuy nhiên, từ nửa cuối năm 2022, nhiều ngân hàng trung ương lớn đã tăng lãi suất. Ngoài ra, ở trong nước xuất hiện sự kiện rút tiền hàng loạt tại ngân hàng SCB (tháng 10/2022). Do đó, trong quý 4/2023, Ngân hàng Nhà nước tập trung ưu tiên đảm bảo an toàn hệ thống, ngăn ngừa nguy cơ đổ vỡ, nên mọi biện pháp lúc này ưu tiên ngăn ngừa nguy cơ đổ vỡ hệ thống.
Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ quan tâm, tập trung đánh giá kỹ hơn một số vấn đề: (1) Tăng trưởng kinh tế giảm tốc đáng kể; (2) Công nghiệp chế biến chế tạo từng được coi là động lực dẫn dắt tăng trưởng trong nhiều năm, hiện giờ suy giảm; (3) Nền kinh tế khát vốn nhưng khó hấp thụ vốn; (4) Doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc liên quan đến công tác quản lý nhà nước ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh; (5) Thu ngân sách nhà nước 9 tháng giảm 8,3% so với cùng kỳ năm trước...
Bà Hồng thông tin vào thời điểm đó, các tổ chức tín dụng cũng căng thẳng thanh khoản, một số tổ chức tín dụng bị thiếu dự trữ bắt buộc, nguy cơ mất khả năng chi trả hiện hữu.
Lúc đó, các ngân hàng phải tập trung đáp ứng khả năng yêu cầu chi trả của người dân, với tác động tâm lý người dân họ rút tiền gửi từ ngân hàng nhỏ để chuyển sang ngân hàng lớn. Do đó, Ngân hàng Nhà nước chưa điều chỉnh tăng trưởng tín dụng. Tới tháng 11/2022, thanh khoản cải thiện dần, và đầu tháng 12/2022, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng.
Ngoài vấn đề an toàn hệ thống, quý 4/2022, Ngân hàng Nhà nước cũng phải tập trung ổn định tỷ giá. Theo Thống đốc, khi thị trường xuất hiện hiện tượng rút tiền hàng loạt thì tâm lý trên thị trường tiền tệ, ngoại hối rất căng thẳng. Tỷ giá đã có lúc tăng 10%. Lúc đó, ổn định tỷ giá chỉ có thể dùng biện pháp như can thiệp ngoại tệ, điều chỉnh tăng lãi suất và hạn chế thanh khoản. Ngân hàng Nhà nước đã phải thực hiện cả 3 biện pháp này, tức là vừa can thiệp, vừa tăng lãi suất 2 lần vào tháng 9 và 10, đồng thời chưa điều chỉnh tín dụng. Việc này đã giúp ổn định tỷ giá trở lại, cả năm 2022 tăng trên 3%.
Bà nhấn mạnh, điều hành lãi suất, các công cụ chính sách tiền tệ phải căn cứ vào mục tiêu lạm phát, dự báo xu hướng lạm phát thế giới, trong nước và yêu cầu ổn định tỷ giá, an toàn hệ thống. Những nhiệm vụ này không thể hy sinh nhiệm vụ nào, mà phải đảm bảo hài hoà, linh hoạt trong điều hành. Nếu xu hướng lạm phát bùng lên thì chính sách tiền tệ có nhiệm vụ phòng ngừa, chuẩn bị xu hướng thắt chặt.
Bà Hồng nhắc lại cuối năm 2021, Mỹ và một số nước đánh giá lạm phát chỉ tạm thời nên chưa thắt chặt chính sách tiền tệ. Nhưng tới năm 2022, lạm phát bùng lên, các ngân hàng trung ương lớn dẫn đầu là Fed buộc phải thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhanh, mạnh, nên tác động tới các nền kinh tế toàn cầu. Do đó, điều hành chính sách tiền tệ không thể chủ quan với lạm phát. Phải luôn nhìn xu hướng lạm phát phía trước chứ không phải thấy lạm phát thời gian qua thấp mà có thể nới lỏng chính sách tiền tệ. Như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đều dựa vào chỉ báo lạm phát để quyết định điều chỉnh tăng lãi suất hay không.
Theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế, lạm phát có xu hướng đảo ngược, từ tháng 7-9 đã tăng lên, và lạm phát cơ bản tăng 4,49% trong 9 tháng đầu năm. Bà Hồng cho rằng, đây cũng là vấn đề cần lưu ý trong điều hành chính sách tiền tệ.
Liên quan tới xứ lỷ ngân hàng yếu kém, theo ý kiến thẩm tra là còn chậm, Thống đốc nói, đây là việc khó, cần thời gian. Từ đầu nhiệm kỳ Chính phủ, Thủ tướng đã chỉ đạo xử lý rất quyết liệt. Ngân hàng Nhà nước đã trình xin cấp có thẩm quyền chủ trương xử lý các ngân hàng yếu kém.
Trong điều kiện bình thường xử lý ngân hàng yếu kém đã khó, trong bối cảnh khó khăn của kinh tế thế giới và trong nước ở giai đoạn nửa nhiệm kỳ, việc cơ cấu lại và xử lý các ngân hàng yếu kém đang trong giai đoạn hoàn tất, bà Hồng cho biết.