Áp lực đáo hạn trái phiếu thực chất sẽ cao hơn so với con số 279.000 tỷ
Năm 2024 ước tính có khoảng 279 nghìn tỷ đồng trái phiếu đáo hạn, với hơn 115 nghìn tỷ làm trái phiếu doanh nghiệp bất động sản. Tuy nhiên số liệu trên chưa tính những khoản đáo hạn “lần 2” sau khi được gia hạn, nên áp lực đáo hạn trong năm nay thực chất sẽ cao hơn...
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp sơ cấp suy giảm trong tháng 2 với tổng giá trị phát hành chỉ đạt 1,165 tỷ đồng giảm 45,8% so với tháng trước với kỳ hạn bình quân là 2,87 năm. Trong đó, chỉ có 3 đợt phát hành trái phiếu riêng lẻ do 3 doanh nghiệp thuộc nhóm ngành xây dựng, vận tải cảng biển và thương mại dịch vụ.
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp ảm đạm trong 2 tháng đầu năm phần nhiều nguyên nhân đến từ việc một số điều khoản trong Nghị định 65 có hiệu lực trở lại khiến cho quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp khắt khe hơn, theo KBSV. Khối lượng phát hành sẽ khởi sắc hơn vào nửa cuối năm khi mà kinh tế ấm lên, thị trường bất động sản hồi phục và theo đó các nút thắt của thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng dần được gỡ bỏ.
Trong tháng 3, dự tính sẽ có khoảng 23,07 nghìn tỷ đồng trái phiếu đáo hạn tăng 372% so với tháng trước. Trong đó, nhóm Bất động sản chiếm 63%, Thương mại dịch vụ chiếm 10% và nhóm Xây dựng chiếm 9%.
Tính cả năm 2024, ước tính có khoảng 279 nghìn tỷ đồng trái phiếu đáo hạn, với hơn 115 nghìn tỷ làm trái phiếu doanh nghiệp bất động sản (chiếm 41,4%), tiếp theo là nhóm tổ chức tài chính với hơn 81 nghìn tỷ (chiếm 29%). Số liệu trên chưa tính những khoản đáo hạn “lần 2” sau khi được gia hạn, cho nên áp lực đáo hạn trong năm nay thực chất sẽ cao hơn so với con số trên phản ánh.
Ở thị trường thứ cấp, quy mô giao dịch giảm dần trong 2 tháng đầu năm, tháng 2 đạt 60 nghìn tỷ đồng, giảm 20% so với tháng trước. Hoạt động mua lại trái phiếu cũng chậm lại trong tháng 2 với khối lượng trái phiếu doanh nghiệp mua lại đạt 2,494 tỷ đồng giảm 60% so với cùng kỳ.
Tuy nhiên KBSV cho rằng hoạt động mua lại sẽ cải thiện trong các tháng tiếp theo khi tình hình kinh doanh cải thiện hơn, bên cạnh đó mặt bằng lãi suất thấp cũng là động lực để các doanh nghiệp gia tăng mua lại các trái phiếu phát hành với lãi suất cao trong giai đoạn trước.
Về tỷ giá, số liệu PCE tháng 1 của Mỹ không cho thấy sự bất ngờ nào khi giảm xuống phù hợp với kỳ vọng của thị trường. Cụ thể, PCE tháng 1 đạt 2,4%, PCE lõi giảm xuống 2,8% và là mức PCE thấp nhất kể từ tháng 4/2021. Tuy nhiên, đã có những dấu hiệu đầu tiên về việc lạm phát có thể quay trở lại. Giá dịch vụ đo lường theo ISM Services Prices đã tăng mạnh lên 64 điểm trong tháng 1 từ 56.7 điểm trong tháng 12/2023.
Cuộc khảo sát của NFIB về khả năng tăng giá bán của các doanh nghiệp cho thấy, trong 3 tháng qua xác suất đã tăng từ 20% lên 40%. Do đó, rủi ro lạm phát của Mỹ có thể tiếp tục làm DXY tăng cao, gây áp lực lên tỷ giá trong thời gian tới.
Ở chiều ngược lại, hoạt động xuất nhập khẩu và dòng vốn FDI tiếp tục tăng trưởng tích cực đang là yếu tố hỗ trợ tỷ giá. Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tính đến ngày 20/2 đạt 4,29 tỷ USD tăng 38,6%. Trong khi đó, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 2 tháng đầu năm ước đạt 2,8 tỷ USD tăng 9,8% so với năm trước và là mức cao nhất trong 5 năm qua.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 2 tháng đầu năm đạt 113,96 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 59,34 tỷ USD (+19,2%) và nhập khẩu đạt 54,62 tỷ USD (+18%). Tính chung 2 tháng đầu năm, Việt Nam xuất siêu 4,2 tỷUSD. Dù vậy, hoạt động của doanh nghiệp nội (dù đã có cải thiện) nhưng vẫn vẫn nhập siêu 3,53 tỷ USD.
Theo đó, KBSV giữ nguyên dự báo về tỷ giá, tăng 1,5% trong năm nay, đạt 24.600 USD/VND.