15:35 10/01/2020

Kỳ vọng cú hích từ chính sách tiền tệ năm 2020

Nguyên Minh

Chính sách của cơ quan quản lý là yếu tố vô cùng quan trọng để tăng sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam

Theo đánh giá của chuyên gia SSI, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có một năm 2019 ghi dấu trong điều hành chính sách tiền tệ.

Cụ thể, khác với xu hướng tăng khi bước vào mùa cao điểm, tỷ giá và lãi suất trong tháng cuối năm 2019 khá bình lặng. Dòng tiền gửi của Kho bạc Nhà nước quay trở về hệ thống ngân hàng và các giao dịch bán ngoại tệ đã mang đến nguồn cung VND dồi dào cho các ngân hàng thương mại.

Thống kê của SSI cho thấy, nhìn lại cả năm 2019, tỷ giá USD/VND chỉ có 1 đợt sóng duy nhất quanh tháng 5/2019 khi quan hệ thương mại Mỹ - Trung trở nên căng thẳng tuy nhiên nhanh chóng hạ nhiệt trong vài tuần sau đó. Tỷ giá cả năm hầu như đi ngang và có chiều hướng giảm vào cuối năm. Tính chung cả năm, VND không những không giảm mà còn tăng giá so với USD là 0,16%.

Cán cân tổng thể của Việt Nam liên tục thặng dư, lũy kế 9 tháng đã thặng dư tới gần 14 tỷ USD - mức kỷ lục từ trước tới nay. Một lượng cung ngoại tệ lớn đã giúp Ngân hàng Nhà nước mua vào tới 20 tỷ USD trong năm 2019, nâng dự trữ ngoại hối lên trên 79 tỷ USD - gấp đôi so với cuối năm 2016. 

Các chuyên gia phân tích nhận định, kết quả trên đạt được ngoài nhân tố khách quan không thể không kể đến vai trò điều phối của Ngân hàng Nhà nước.

Ngay từ đầu năm 2019, Ngân hàng Nhà nước đã nâng mạnh tỷ giá mua vào từ 22.700 đồng/USD lên 23.200 đồng/USD và giữ nguyên trong 11 tháng, hầu hết thời gian tỷ giá mua của Ngân hàng Nhà nước đều cao hơn tỷ giá mua của các ngân hàng thương mại, tạo sức hút lớn với dòng ngoại tệ, gia tăng bộ đệm dự trữ ngoại hối. 

Khi tỷ giá giao dịch giảm mạnh trong tháng 12, Ngân hàng Nhà nước cũng giảm tỷ giá mua 25 đồng/USD, khéo léo phát đi thông điệp về đồng nội tệ chuyển động có tăng có giảm theo cung cầu thị trường, một hành động hợp lý khi phía Mỹ luôn theo sát các nước có thặng dư thương mại lớn.

20 tỷ USD mua vào cho dự trữ ngoại hối tương ứng với 464 nghìn tỷ đồng bơm ra thị trường, bằng 5,04% tổng cung tiền tại cuối năm 2018. Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng linh hoạt các công cụ để điều tiết lượng tiền đồng, số dư tín phiếu đang lưu hành vào thời điểm cao nhất là 90 nghìn tỷ VND. Nhờ các công cụ tiền tệ linh hoạt để triệt tiêu lạm phát cầu kéo, CPI cả năm chỉ là 2,79%, mức thấp nhất trong 3 năm qua.

Cùng với sự chủ động ứng phó để đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước đã rất kiên định với mục tiêu dài hạn là nâng cao chất lượng và năng lực của hệ thống ngân hàng thương mại thông qua: quyết liệt xử lý nợ xấu; ban hành các thông tư mới với lộ trình siết chặt các yêu cầu về tỷ lệ an toàn, thanh khoản; cảnh báo với các hoạt động rủi ro cao; tạo môi trường để thử nghiệm Fintech…

"Những kết quả đạt được trong năm 2019 đã gia tăng niềm tin của thị trường vào năng lực điều hành của Ngân hàng Nhà nước cũng như khả năng có thể dự đoán đối với các chính sách của cơ quan quản lý - yếu tố vô cùng quan trọng để tăng sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam", báo cáo của SSI đánh giá.

image011

Tăng trưởng tín dụng 3 năm gần đây. Nguồn: Báo cáo thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam (SSI)

Hòa cùng với xu hướng chung trên toàn cầu, chính sách tiền tệ trong năm 2019 đã dịch chuyển theo hướng nới lỏng rõ nét hơn. Ngân hàng Nhà nước đã giảm đồng loạt các lãi suất điều hành, trong đó 2 lần giảm lãi suất OMO và 3 lần giảm lãi suất tín phiếu, mức giảm tổng cộng đều là 0,75%. Vùng dao động của lãi suất trên liên ngân hàng đã được kéo giảm đáng kể, về 2,25% - 4,0%/năm.

Ngân hàng Nhà nước cũng hạ trần lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND của các ngân hàng thương mại. Với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng là 0,8%/năm và kỳ hạn 1 đến dưới 6 tháng là 5%/năm (mức cũ là 1%/năm và 5,5%/năm). Lãi suất cho vay ngắn hạn VND của các ngân hàng thương mại với 5 lĩnh vực ưu tiên giảm xuống 6%/năm (mức cũ là 6,5%/năm) kể từ 19/11/2019. Với các yêu cầu trên, lãi suất huy động thực tế của các ngân hàng đã giảm mạnh ở các kỳ hạn dưới 6 tháng. Lãi suất các kỳ hạn trên 6 tháng dù vẫn neo cao nhưng tín hiệu giảm đã bắt đầu xuất hiện.

Với bối cảnh hiện tại, SSI dự báo, sang năm 2020, lãi suất huy động có khả năng tiếp tục hạ dựa trên 2 nền tảng là thanh khoản hệ thống ngân hàng và định hướng từ Chính phủ. Giá cả hàng hóa và thị trường ngoại hối là các biến số có thể làm nhanh hoặc chậm việc hạ lãi suất.

Việc giảm lãi suất ở các kỳ hạn dài sẽ vẫn có khoảng cách giữa các nhóm ngân hàng lớn và nhỏ do quy định giảm tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Tuy vậy việc kiểm soát các ngân hàng nhỏ trong năm 2019 đã mang lại kết quả, giúp hạn chế bớt các cuộc chạy đua lãi suất trong tương lai.

Dự báo tăng trưởng tín dụng năm 2020 sẽ được giữ ở nhịp độ như năm 2019, có thể thấp hơn. Quy mô tín dụng hiện tại của Việt Nam đã đạt 8,2 triệu tỷ đồng, bằng 138% GDP, một tỷ lệ tương đối cao trong khi tỷ lệ này sẽ còn tiếp tục tăng trong một vài năm tới do tăng trưởng GDP khó vượt trên tăng trưởng tín dụng.

Thị trường vốn dù đã phát triển khá nhanh trong một vài năm vừa qua nhưng quy mô huy động vốn (cả cổ phiếu và trái phiếu) qua thị trường vốn còn nhỏ, chưa thể thay thế được vị thế của tín dụng trong việc cấp vốn cho nền kinh tế.

Mặc dù tổng tín dụng có thể tăng chậm lại nhưng tín dụng cho các ngành nghề ưu tiên hay cho sản xuất kinh doanh nói chung sẽ vẫn tăng cao. Trong năm 2019, tín dụng với nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng 16%, nhóm doanh nghiệp công nghệ cao tăng 15% trong khi tín dụng chung tăng dưới 14%.