Lương tăng nhanh hơn năng suất lao động: "Đáng lo ngại"
Lương trung bình tăng nhanh hơn năng suất lao động trên tất cả các nhóm quy mô doanh nghiệp
Tốc độ tăng lương tăng nhanh hơn tốc độ tăng năng suất lao động là vấn đề đáng lo ngại của Việt Nam, theo Viện trưởng VEPR Nguyễn Đức Thành.
"Hiểu thị trường lao động để tăng năng suất" là chủ đề của báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2018 được Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) công bố tại hội thảo sáng 8/5.
5 trong số 7 chương của bản báo cáo được dành để cung cấp thông tin, phân tích và đánh giá về đặc điểm của năng suất lao động Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mức độ tăng lương và năng suất lao động tại Việt Nam, quyết định tham gia thị trường và chọn nghề của lao động trẻ,thúc đẩy năng suất lao động thông qua hội nhập thị trường lao động quốc tế, viễn cảnh kinh tế Việt Nam 2018 và khuyến nghị chính sách.
Theo báo cáo thì năng suất lao động bình quân của Việt Nam tăng từ 38,64 triệu đồng/lao động/năm vào năm 2006 lên mức 60,73 triệu đồng năm 2017. Trong giai đoạn 2012-2017, năng suất lao động bình quân của toàn nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ với tốc độ bình quân 5,3%/năm và tăng trưởng cao nhất vào năm 2015 với tốc độ 6,49%. Nhìn chung, giá trị năng suất lao động tổng hợp có xu hướng tăng với tốc độ khá nhanh qua các năm.
Tuy nhiên, tốc độ tăng lương trung bình năm (6,7%) vẫn vượt quá tốc độ tăng năng suất lao động (5%) trong giai đoạn 2004-2015 (đặc biệt sau năm 2009).
Lưu ý của các tác giả báo cáo là lương trung bình gồm tất cả các khoản lương, phục cấp, thưởng và chi trả an sinh xã hội. Năng suất lao động không tính đến lợi nhuận từ tài chính và lợi nhuận khác.
Bản báo cáo phân tích, theo loại hình sở hữu, tăng trưởng tiền lương đã vượt mức tăng năng suất lao động của các doanh nghiệp FDI, nhưng thấp hơn mức tăng năng suất lao động của các doanh nghiệp nhà nước. Đối với doanh nghiệp tư nhân, tăng trưởng lương trung bình khá sát với mức tăng năng suất lao động.
Theo quy mô doanh nghiệp thì lương trung bình tăng nhanh hơn năng suất lao động trên tất cả các nhóm quy mô doanh nghiệp.
Đánh giá tác động, các tác giả báo cáo cho rằng việc tăng lương tối thiểu nhìn chung dẫn đến tăng lương trung bình và giảm việc làm cũng như giảm tỷ suất lợi nhuận. Dù rằng những ảnh hưởng này có khác biệt đáng kể giữa các thành phần kinh tế.
Nói chung, khi lương tối thiểu tăng, khu vực tư nhân có khuynh hướng cắt giảm lao động chính thức (có đóng bảo hiểm) để đối phó. Các ngành công nghiệp thâm dụng lao động như dết may, sản phẩm gỗ, và đồ nội thất có xu hướng thay thế lao động bằng máy móc.
Tuy nhiên, đáng lo ngại là một số ngành công nghiệp thâm dụng lao động khác như điện tử và sản xuất máy móc lại giảm đầu tư vào trang thiết bị, cho thấy có thể nhà đầu tư lo ngại giá lao động tăng trong dài hạn có thể khiến các ngành này mất sức cạnht ranh và do đó đã bắt đầu thoái lui đầu tư…
Viện trưởng Nguyễn Đức Thành khi trình bày báo cáo cũng nhấn mạnh rằng, tốc độ tăng lương nhanh hơn tăng năng suất lao động sẽ ăn mòn lợi nhuận của doanh nghiệp, tích luỹ tư bản chậm lại và không mở rộng được sản xuất để thu hút lao động. Điều này theo ông Thành lại tạo ra vòng xoáy luẩn quẩn.
Khuyến nghị từ các tác giả báo cáo là điều chỉnh lương tối thiểu cần được thực hiện phù hợp với tăng trưởng năng suất lao động. Và Chính phủ cần lựa chọn thúc đẩy năng suất lao động như một mục tiêu quan trọng hàng đầu trong kết hoạch trung và dài hạn.
Lương tối thiểu là một công cụ để hỗ trợ người lao động, nhưng bản chất vấn đề nằm ở năng suất lao động. Nếu không có sự cải thiện vững chắc của năng suất, nỗ lực tăng lương tối thiểu sẽ dần thủ tiêu sức cạnh tranh của nền kinh tế, dẫn tới thất nghiệp nhiều hơn, nhóm tác giả báo cáo nhấn mạnh.