"Nhà nước trở thành bà đỡ cho thị trường chứng khoán phát triển"
Chúng tôi đánh giá cơ quan nhà nước của Việt Nam đã trở thành "bà đỡ" cho thị trường chứng khoán phát triển
Đó là chia sẻ của Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà tại phiên thảo luận: "Khơi thông dòng vốn trung - dài hạn cho phát triển kinh tế - xã hội". Đây là một trong 6 phiên hiến kế và talk show diễn ra trước phiên toàn thể của Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam 2019 diễn ra ngày 2/5.
Những hiến kế này, tất cả những sáng kiến, đóng góp của các đại biểu tham dự sẽ được trình bày, gửi đến lãnh đạo Chính phủ tại phiên toàn thể của Diễn đàn kinh tế tư nhân Việt Nam.
Vốn cho tư nhân trông cậy vào chứng khoán, trái phiếu
Ông Trần Xuân Hà, Thứ trưởng Bộ Tài chính cho biết, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, nhiều giải pháp được triển khai để thực hiện Nghị quyết Trung ương 10. Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm là hoàn thiện thể chế quản lý tài chính doanh nghiệp và minh bạch hóa thông tin; cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp gắn với niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán...
"Thị trường chứng khoán với vai trò là kênh huy động vốn trung - dài hạn cho đầu tư phát triển đã có sự phát triển đáng ghi nhận. Cuối năm 2018, giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán đã đạt 111%GDP, trong đó thị trường cổ phiếu đạt 71,9% GDP, thị trường trái phiếu đạt hơn 39% GDP (trong đó trái phiếu Chính phủ đạt hơn 27% GDP, trái phiếu doanh nghiệp đạt 8,6% GDP)", ông Hà nói.
Thị trường bảo hiểm đã duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 25% mỗi năm. Đến cuối năm 2018, quy mô của thị trường bảo hiểm đã đạt trên 3% GDP đối với doanh thu bảo hiểm gốc.
Thứ trưởng Bộ Tài Chính dẫn chứng, những năm 1998, 2000, Việt Nam chỉ có trong tay một nghị định phát triển thị trường chứng khoán, cơ quan nhà nước làm hết tất cả mọi việc để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. "Chúng tôi đánh giá cơ quan nhà nước của Việt Nam đã trở thành "bà đỡ" cho thị trường chứng khoán phát triển", ông Hà nhấn mạnh.
"Dù vậy, kết quả này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm của Việt Nam", ông nói.
Ông Phạm Hồng Sơn, Phó chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhấn mạnh, thị trường chứng khoán mới có từ năm 2000 song phát triển nhanh và tương đối bền vững. Hiện, trên 1.000 doanh nghiệp niêm yết, tỷ lệ các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa lớn. Huy động vốn qua thị trường chứng khoán tốt.
Ông Sơn cho rằng, thị trường này được Chính phủ quan tâm, chú trọng phát triển. Nhà nước cũng đề ra khung pháp lý phù hợp để các doanh nghiệp phát triển. Bên cạnh đó, việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp là thị trường mới, non trẻ. Các doanh nghiệp lấy tiền vay ngân hàng để phát triển nguồn vốn thì gặp nhiều rủi ro nên việc huy động vốn qua chứng khoán có thể hạn chế điều này.
Về giải pháp, ông nhấn mạnh thêm, Bộ Tài chính đang chỉ đạo để Sở Chứng khoán Hà Nội xây dựng cổng thông tin để các doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Bộ cũng đệ trình Luật chứng khoán sửa đổi tạo ra khung pháp lý hoàn chỉnh.
Theo ông Nguyễn Hữu Nghĩa, Phó trưởng ban Kinh tế Trung ương, kinh tế tư nhân tiếp cận thuận lợi, bình đẳng hơn các nguồn vốn chính thức và các thị trường các yếu tố sản xuất. Năm 2018, tỷ lệ dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng so GDP hơn 130%; quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu tương đương 71,6% GDP; tổng giá trị trái phiếu niêm yết trên thị trường đạt 1,1 triệu tỷ đồng, tương đương với 20,3% GDP.
"Nhà nước cần tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tiếp cận vay vốn ngân hàng, huy động vốn trên thị trường chứng khoán; phát triển đa dạng các định chế tài chính, các quỹ đầu tư mạo hiểm, các quỹ bảo lãnh tín dụng, các tổ chức tài chính vi mô, các tổ chức tư vấn tài chính, dịch vụ kế toán, kiểm toán, thẩm định giá, xếp hạng tín nhiệm…", ông Nghĩa nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh cơ cấu lại và phát triển đồng bộ thị trường chứng khoán, thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp và các thị trường chứng khoán phái sinh. Đây sẽ là kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng của các doanh nghiệp tư nhân.
"Kinh tế tư nhân gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, rào cản phát triển, trong đó có vấn đề tiếp cận các nguồn vốn, nhất là nguồn vốn trung và dài hạn", lãnh đạo Ban Kinh tế Trung ương cho biết.
Vốn trung, dài hạn: Giảm lệ thuộc vào ngân hàng
Ông Đào Minh Tú, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho rằng, Ngân hàng Nhà nước nhiều năm qua đã và đang triển khai nhiều giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế được mở rộng vay vốn theo năng lực tài chính, kinh doanh đồng thời mở rộng kênh cấp vốn tín dụng khác (bảo lãnh, thuê tài chính...) của tổ chức tín dụng cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, sự mất cân đối giữa kênh cung ứng vốn ngân hàng và thị trường vốn còn rất bất cập.
"Trong khi nhu cầu vốn trung, dài hạn của doanh nghiệp để mở rộng và phát triển sản xuất, kinh doanh rất lớn, nhưng thị trường vốn chưa phát triển đủ cả về quy mô và chất lượng để có thể đáp ứng được nhu cầu này. Do đó, vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu vẫn phải dựa vào hệ thống ngân hàng, tín dụng trung dài hạn chiếm tỷ trọng khá lớn, khoảng 50,6% tổng dư nợ", ông Tú nhấn mạnh.
Thực trạng này đã và đang tạo sức ép và rủi ro rất lớn cho hệ thống tổ chức tín dụng. Do đó, để đáp ứng nhu cầu vốn trung, dài hạn của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung thì phát triển thị trường chứng khoán là điều kiện tất yếu, giảm dần lệ thuộc vào tín dụng ngân hàng, đặc biệt là các nhu cầu vốn trung, dài hạn.
Về sự mất cân băng thị trường tín dụng và thị trường vốn, ông Nguyễn Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thừa nhận thực trạng của nền kinh tế hiện nay tạo áp lực quá lớn đến hệ thống các tổ chức tín dụng.
Theo ông Hùng, áp lực đối với các tổ chức tín dụng hiện đang rất lớn. Đại diện Ngân hàng Nhà nước dẫn ra một số nguyên nhân chính dẫn đến sự mất cân bằng gồm: Thứ nhất, phía doanh nghiệp chưa có báo cáo kế hoạch kinh doanh dài hạn, việc quen thói quen sử dụng vốn dài hạn và xây dựng các kế hoạch phát triển dài hạn, doanh nghiệp chưa có kế hoạch dẫn đến ảnh hưởng lâu dài.
Thứ hai, doanh nghiệp còn ngại công bố thông tin, báo cáo thông tin tài chính chưa được rõ ràng, gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng.
Thứ ba, chưa đáp ứng được điều kiện phát hành trái phiếu, thiếu vắng các nhà đầu tư chuyên nghiệp mang tính lâu dài, tính thanh khoản của trái phiếu chưa cao, chưa có các tổ chức xếp hạng tín dụng tạo điều kiện cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư... Thông tin chưa được minh bạch, công khai, chỉ tập trung vào trái phiếu chính phủ, bảo lãnh...
Theo đại diện Ngân hàng Nhà nước, giải pháp giải quyết nguyên nhân là rà soát, khuyến khích, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hiện đại hóa công nghệ thông tin, sớm hình thành công ty xếp hạng tín nghiệm đủ năng lực. Về phía doanh nghiệp cần nâng cao năng lực tài chính, quản trị điều hành, có kế hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn, có lộ trình đủ lớn, tập trung vào phát triển vốn thông qua phát hành trái phiếu...