22:22 01/07/2012

Lập công ty mua bán nợ quốc gia: “Không hiệu quả!”

Lê Hường

“Mua bán nợ không hẳn là giải pháp hay, nói cách khác là không hiệu quả trong điều kiện của chúng ta hiện nay”

Ông Nguyễn Hoàng Hải: “Một số giải pháp khác cần được chú trọng hơn, đó là, thúc đẩy việc mua bán cổ phần của các ngân hàng, có thể thông qua hình thức cho đối tác nước ngoài tham gia mua cổ phần với tỷ lệ cao hơn để cải thiện chất lượng quản trị của ngân hàng”.
Ông Nguyễn Hoàng Hải: “Một số giải pháp khác cần được chú trọng hơn, đó là, thúc đẩy việc mua bán cổ phần của các ngân hàng, có thể thông qua hình thức cho đối tác nước ngoài tham gia mua cổ phần với tỷ lệ cao hơn để cải thiện chất lượng quản trị của ngân hàng”.
“Mua bán nợ không hẳn là giải pháp hay, nói cách khác là không hiệu quả trong điều kiện của chúng ta hiện nay”, ông Nguyễn Hoàng Hải, Tổng thư ký Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam, cho biết như vậy khi nói về đề án lập công ty mua bán nợ xấu ngân hàng.

Ông nói:

- Để cho một công ty mua bán nợ ngân hàng hoạt động, khuôn khổ pháp lý sẽ phức tạp hơn nhiều so với các văn bản pháp lý quy định hoạt động của DATC - công ty mua bán nợ thuộc Bộ Tài chính vì DATC chỉ có mục tiêu xử lý các khoản nợ và tài sản tồn đọng để hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa.

Ở các nước, việc xử lý nợ xấu phải có luật riêng. Như vậy, xây dựng được quy trình pháp lý để cho công ty này hoạt động đã mất không ít thời gian trong khi việc xử lý nợ đòi hỏi phải thực hiện nhanh.

Về mặt nhân sự, nếu Ngân hàng Nhà nước “đứng” ra làm, đội ngũ nhân sự sẽ là những người mới, lạ lẫm về mô hình này nên sẽ rất mất thời gian để thực hiện được quy trình này và chưa hẳn đã làm được.

Về phía các ngân hàng thương mại, họ hoàn toàn có quyền định đoạt nợ xấu của mình. Nói cách khác, họ hoàn toàn có thể bán nợ xấu theo giá thị trường, kể cả những con tàu sắt vụn vẫn bán được chỉ có điều có hiệu quả hay không.

Nếu công ty mua bán nợ được thành lập để xử lý các khoản nợ xấu này, ngân hàng thương mại sẽ có xu hướng bị động, “chờ” được xử lý hộ, tất nhiên, với giá cao hơn so với giá bán cho các đối tác khác trên thị trường. Hay nói cách khác, ngân hàng thương mại chỉ bán cho công ty mua bán nợ của Nhà nước khi có lợi hơn là bán cho tư nhân.

Trong khi đó, bán cho nhà nước hẳn sẽ mất thời gian lâu hơn, nhưng vì được giá hơn, nên các ngân hàng thương mại vẫn tìm cách bán. Mặt khác, với các khoản nợ xấu còn “ngon”, các ngân hàng thương mại không dại gì bán đi mà có thể giữ lại để đầu tư. Kể cả trong trường hợp phải bán, họ cũng sẽ bán với giá cao.

Dĩ nhiên, trong giai đoạn khó khăn, Nhà nước vẫn phải hỗ trợ xử lý nợ xấu và kiểu gì cũng tốn kém. Tuy nhiên, điểm mấu chốt cần xem xét là phải vì mục tiêu thay đổi chất lượng quản trị trong hệ thống ngân hàng - một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu hiện nay.

Cứ cho là công ty này có thể được thành lập nhanh, mặc dù trên thực tế là không nhanh được, cứ cho là công ty này được Nhà nước bao cấp nhưng liệu có cải thiện được hệ thống ngân hàng? Chẳng hạn, mua nợ xấu của các ngân hàng yếu kém nhưng nếu không có biện pháp quyết liệt, liệu có cứu được các ngân hàng này không?

Theo kinh nghiệm quốc tế, việc lập ra công ty này là tốn kém cho ngân sách nhà nước, kỳ vọng có lãi là khá khó khăn, đặc biệt trong thực trạng quản trị hiện nay. Một rủi ro khác là sẽ thất thoát ngân sách nhà nước.

Mặt khác, việc thành lập công ty mua bán nợ ở các nước trong các thập kỷ trước cũng không phải là thành công lắm, thậm chí còn chịu nhiều điều tiếng.

Trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa rồi, nhiều ngân hàng ở Mỹ và châu Âu “ngập” trong đống nợ xấu nhưng có thấy thành lập công ty mua bán nợ xấu quốc gia đâu... Chính phủ Mỹ giải quyết theo cách quốc hữu hóa nhanh các ngân hàng yếu kém hoặc bơm vốn để nắm cổ phần chi phối. Sau đó, khi các ngân hàng này phục hồi, vốn sẽ được trả lại cho Chính phủ thông qua tư nhân hóa.

Từ phân tích trên cho thấy, mua bán nợ không hẳn là giải pháp hay, nói cách khác là không hiệu quả trong điều kiện của chúng ta hiện nay.

Trong khi đó, một số giải pháp khác cần được chú trọng hơn, đó là, thúc đẩy việc mua bán cổ phần của các ngân hàng, có thể thông qua hình thức cho đối tác nước ngoài tham gia mua cổ phần với tỷ lệ cao hơn để cải thiện chất lượng quản trị của ngân hàng. Giải pháp này là hiệu quả mà Nhà nước lại không mất vốn. Thực tế cho thấy, trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, biện pháp cho ngân hàng nước ngoài mua lại cổ phần của ngân hàng thương mại thua lỗ là chủ yếu.