09:44 17/06/2014

“Tam chủng chiến pháp” và mánh khóe Trung Quốc về biển Đông

An Huy

Vì lý do gì mà Trung Quốc lại đưa tranh chấp với Việt Nam lên Liên hiệp quốc?

Hôm 14/6 vừa qua, nhật báo The Philippines Star đăng một bức tranh biếm họa về việc Trung quốc tố Việt Nam ra Liên hiệp quốc. Bức tranh mô tả người khổng lồ Trung Quốc một mặt uy hiếp Philippines, nhưng mặt khác lại mếu máo "mách" với Liên hiệp quốc là bị Việt Nam "bắt nạt".<br>
Hôm 14/6 vừa qua, nhật báo The Philippines Star đăng một bức tranh biếm họa về việc Trung quốc tố Việt Nam ra Liên hiệp quốc. Bức tranh mô tả người khổng lồ Trung Quốc một mặt uy hiếp Philippines, nhưng mặt khác lại mếu máo "mách" với Liên hiệp quốc là bị Việt Nam "bắt nạt".<br>
Theo một bài viết của GS. Carl Thayer đăng trên tờ The Diplomat, trong khi căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc về vấn đề giàn khoan Hải Dương 981 tiếp tục duy trì, Bắc Kinh đang tìm cách “lợi cả đôi đường” ở Liên hiệp quốc. VnEconomy xin giới thiệu tới độc giả bản lược dịch bài viết này:

“Cuộc đối đầu Việt-Trung trên biển Đông quanh việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển của Việt Nam hồi đầu tháng 5 đến nay đã bước sang tuần thứ bảy.

Vào hôm 9/6 vừa rồi, Trung Quốc bất ngờ mở một mặt trận mới khi ông Vương Môn, Phó đại sứ Trung Quốc tại Liên hiệp quốc, trình lên Tổng thư ký Ban Ki-moon một tuyên bố lập trường chính thức về tranh chấp với Việt Nam trên biển Đông, kèm theo đề nghị Tổng thư ký cho lưu hành tuyên bố này tới tất cả 193 quốc gia thành viên Liên hiệp quốc.

Hành động của Trung Quốc nhằm quốc tế hóa tranh chấp với Việt Nam không hề cho thấy sự thay đổi trong chính sách đã duy trì bấy lâu của nước này rằng, các tranh chấp trên biển chỉ có thể được giải quyết song phương thông qua tham vấn và đàm phán trực tiếp giữa các quốc gia có liên quan trực tiếp. Bởi vì, chỉ một ngày sau khi Trung Quốc trình tuyên bố lập trường lên Tổng thư ký Liên hiệp quốc, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao nước này Hoa Xuân Oánh, ra tuyên bố khẳng định Trung Quốc không đồng ý để Liên hiệp quốc làm trọng tài phân xử tranh chấp với Việt Nam.

Vậy thì vì lý do gì mà Trung Quốc lại đưa tranh chấp với Việt Nam ra Liên hiệp quốc?

Vào năm 2003, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân ủy Trung ương của nước này chính thức thông qua một học thuyết mang tên “tam chủng chiến pháp” (ba loại hình chiến tranh). Học thuyết này là một thành tố quan trọng của loại hình chiến tranh thông tin.

Theo một nghiên cứu mang tên “China’s Three Warfares” (tạm dịch: “Ba loại hình chiến tranh của Trung Quốc”) của tác giả Timothy A. Walton viết cho công ty tư vấn, nghiên cứu và phân tích Delex Consulting, Studies and Analysis hồi năm 2012, “ba loại hình chiến tranh” này bao gồm: chiến tranh tâm lý, chiến tranh truyền thông, và chiến tranh pháp lý.

Trong đó, hai loại hình chiến tranh truyền thông và pháp lý định hình bản tuyên bố lập trường mà Trung Quốc gửi lên Liên hiệp quốc.

Theo chuyên gia Walton, chiến tranh truyền thông là một chiến lược nhằm gây ảnh hưởng tới quan điểm của công chúng quốc tế, xây dựng sự ủng hộ dành cho Trung Quốc, và ngăn ngừa đối phương theo đuổi những hành động đi ngược lại lợi ích của Trung Quốc.

Bản tuyên bố lập trường của Trung Quốc được gửi lên Liên hiệp quốc nhằm đánh lấn những nỗ lực tuyên truyền của Việt Nam và nhằm cô lập Việt Nam. Đại bộ phận các nước thành viên Liên hiệp quốc không có lợi ích trực tiếp trong tranh chấp lãnh thổ trên biển Đông. Một số quốc gia Đông Nam Á quan tâm đến hành động của Trung Quốc không muốn bị ép phải đưa ra lập trường công khai về vấn đề này.

Cũng theo chuyên gia Walton, chiến tranh pháp lý là một chiến lược trong đó dùng luật của Trung Quốc và luật pháp quốc tế nhằm giành lợi thế pháp lý cao hơn để thúc đẩy các lợi ích của Trung Quốc. Bản tuyên bố lập trường về biển Đông mà Trung Quốc gửi lên Liên hiệp quốc nêu một loạt tham chiếu có lựa chọn về luật pháp quốc tế để hậu thuẫn cho lập trường của Bắc Kinh.

Ban đầu, Trung Quốc bảo vệ việc mình hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam. Bản tuyên bố nói, giàn khoan này được hạ đặt trong lãnh hải của Trung Quốc. Theo Trung Quốc, giàn khoan Hải Dương 981 nằm cách 17 hải lý từ đảo Tri Tôn, thực thể lãnh thổ cực Tây của quần đảo Hoàng Sa [của Việt Nam nhưng Trung Quốc nhận là của mình]. Trong khi đó, theo Công ước của Liên hiệp quốc về luật biển (UNCLOS), lãnh hải của một nước chỉ kéo dài 12 hải lý từ đường cơ sở của nước đó.

Hôm 6/6, Trung Quốc bèn ra một tuyên bố “sửa sai”, nói rằng giàn khoan Hải Dương 981 nằm trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Trung Quốc. Tuy nhiên, tuyên bố mới này thiếu nền tảng pháp lý.

Theo UNCLOS, mục đích duy nhất của vùng tiếp giáp lãnh hải là để một quốc gia ven biển có thể “thực hiện sự kiểm soát cần thiết để: (a) ngăn chặn sự xâm phạm đối với luật pháp và các quy định về hải quan, tài chính, nhập cư hay an toàn vệ sinh bên trong lãnh thổ hoặc lãnh hải của nước đó; (b) trừng phạt hành vi xâm phạm đối với luật và quy định nói trên xảy ra bên trong lãnh thổ hoặc lãnh hải của nước đó”.

Trung Quốc cũng tìm cách “tung hỏa mù” về tranh chấp với Việt Nam bằng cách đưa ra luận điệu rằng, vị trí đặt giàn khoan Hải Dương 981 gần quần đảo Hoàng Sa [của Việt Nam nhưng Trung Quốc nhận là của mình] hơn so với bờ biển Việt Nam. Chẳng hạn, bản tuyên bố lập trường của Trung Quốc nói, giàn khoan Hải Dương 981 nằm cách đảo Tri Tôn và đường cơ sở xung quanh quần đảo Hoàng Sa 17 hải lý, và cách bờ biển Việt Nam 133-156 hải lý.

Trong khi đó, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với Hoàng Nham (Scarborough), bãi cạn nằm gần Philippines hơn là thực thể lãnh thổ gần nhất của Trung Quốc. Theo luật pháp quốc tế, mức độ gần kề đơn thuần không đủ để thể hiện chủ quyền.

Tuyên bố lập trường của Trung Quốc lên Liên hiệp quốc thực chất đã gây bất lợi cho việc nước này sử dụng loại hình chiến tranh pháp lý để tìm kiếm lợi thế. Chẳng hạn, bản tuyên bố có đoạn viết:

“Vùng nước giữa đảo Tây Sa của Trung Quốc [thực chất là đảo Hoàng Sa của Việt Nam] và bờ biển Việt Nam còn chưa được phân định ranh giới. Hai bên còn chưa thực hiện phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa ở khu vực này. Cả hai bên đều có tư cách tuyên bố EEZ và thềm lục địa theo UNCLOS”.

Nếu những gì mà Trung Quốc nói ở trên là đúng thực tế, lẽ ra Trung Quốc nên thực thi các điều khoản của UNCLOS để giải quyết các tuyên bố chủ quyền chồng lấn. Cả Trung Quốc và Việt Nam lẽ ra đã tham gia vào các thỏa thuận tạm thời về khu vực tranh chấp cho tới khi đạt thỏa thuận về phân định ranh giới. Trong thời gian đó, mỗi bên không được phép làm thay đổi nguyên trạng và đe dọa hay sử dụng vũ lực. Rõ ràng, việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển của Việt Nam là vi phạm các nguyên tắc của luật pháp quốc tế.

Thậm chí, tuyên bố lập trường của Trung Quốc còn làm suy yếu vị thế pháp lý của chính nước này khi lập luận rằng, luật pháp quốc tế là không phù hợp. Bản tuyên bố viết:

“Tuy nhiên, vùng nước này sẽ không bao giờ trở thành EEZ và thềm lục địa của Việt Nam, bất kể nguyên tắc nào (của luật pháp quốc tế) được áp dụng để phân định ranh giới”.

Đại sứ Trung Quốc tại Australia, ông Ma Zhaozu, đã chung tay vào chiến dịch tuyên truyền của Bắc Kinh bằng cách lặp lại luận điệu tương tự trong một bài bình luận đăng trên tờ The Australian hôm 13/6. Đại sứ Ma viết, khu vực tranh chấp chưa bao giờ được phân định ranh giới và “cho dù nguyên tắc nào [của luật pháp quốc tế] được áp dụng, vùng nước này sẽ không bao giờ trở thành một phần trong EEZ và thềm lục địa của Việt Nam”.

Việc Trung Quốc chính thức “bày” ra một bản tuyên bố lập trường trước Tổng thư ký Liên hiệp quốc nên được tiếp nhận bởi các thành viên của cộng đồng quốc tế quan tâm tới sự leo thang căng thẳng Việt-Trung và ảnh hưởng có thể xảy ra của vấn đề với an ninh khu vực. Các quốc gia thành viên Liên hiệp quốc này nên lập luận rằng, vấn đề cần phải được xem xét ở Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc.

Trung Quốc không thể được phép theo đuổi cuộc chiến tranh thông tin để có được cả hai thứ - vừa lưu hành một bản tuyên bố lập trường ở Liên hiệp quốc để thể hiện bản chất nghiêm trọng của tranh chấp với Việt Nam, vừa từ chối được vai trò trọng tài của Liên hiệp quốc. Mỹ và Australia nên thúc đẩy đi đến sự bàn bạc ở Hội đồng Bảo an về vấn đề này. Nhật Bản và các cường quốc hải quân khác có lợi ích trong sự ổn định ở biển Đông nên tham gia.

Khi đó, Trung Quốc sẽ bị rơi vào một vị thế không mấy dễ chịu, trước khả năng sẽ phải bỏ phiếu phủ quyết bất kỳ nghị quyết nào xuất phát từ sự bàn bạc của Hội đồng Bảo an phê phán hành động của Trung Quốc ở biển Đông”.