Xuất khẩu dầu thô sang Trung Quốc tăng đột biến
Tính chung 4 tháng đầu năm, xuất khẩu dầu thô sang Trung Quốc đã tăng gần 114% về lượng và tăng trên 102% về kim ngạch
Dầu thô xuất khẩu sang Trung Quốc hiện chiếm gần 50% tổng khối lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam.
Số liệu thống kê mới nhất từ Tổng cục Hải quan cho thấy, xuất khẩu dầu thô trong tháng 4/2019 sụt giảm 47,7% về lượng và giảm 45% về kim ngạch so với tháng 3/2019. Cụ thể, xuất khẩu dầu thô trong tháng 4 chỉ đạt 217.100 tấn, tương đương gần 117 triệu USD.
Tuy nhiên, nếu cộng chung cả 4 tháng đầu năm 2019 thì xuất khẩu nhóm hàng này vẫn đạt 1,36 triệu tấn, tương đương 689,29 triệu USD, tăng 11,7% về lượng và tăng 6,2% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2018.
Về mức giá, giá xuất khẩu dầu thô trung bình 4 tháng đầu năm đạt 505,1 USD/tấn, giảm 4,9% so với cùng kỳ năm 2018. Riêng tháng 4/2019 giá xuất khẩu dầu thô tăng 5,1% so với tháng 3/2019 nhưng giảm 3,3% so với tháng 4/2018.
Về thị trường xuất khẩu, dầu thô của Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Trung Quốc với gần 680.000 tấn, tương đương 344 triệu USD, chiếm gần 50% trong tổng khối lượng và tổng kim ngạch xuất khẩu dầu thô.
Như vậy, xuất khẩu dầu thô sang Trung Quốc đã tăng 114% về lượng và tăng 102% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái.
Mặc dù lượng và kim ngạch tăng mạnh nhưng giá xuất khẩu dầu thô sang Trung Quốc lại giảm 5,4%, đạt 506,7 USD/tấn.
Đứng thứ hai là thị trường Thái Lan, chiếm trên 23% trong tổng lượng và tổng kim ngạch, đạt 317.428 tấn, tương đương 160,66 triệu USD, tăng 71,5% về lượng và tăng 62,2% về kim ngạch.
Xếp thứ ba là thị trường Malaysia với 128.166 tấn, tương đương 62 triệu USD, tăng 64,6% về lượng và tăng 50,6% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2018.
Xuất khẩu dầu thô sang Malaysia hiện chiếm gần 9% trong tổng khối lượng và tổng kim ngạch dầu thô xuất khẩu của Việt Nam.
Ngoài ra, dầu thô của Việt Nam còn xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Australia nhưng khối lượng ít và sụt giảm rất mạnh so với cùng kỳ năm 2018.
Cụ thể, xuất khẩu dầu thô sang thị trường Nhật Bản đạt 89.583 tấn, tương đương 44,72 triệu USD, giảm 58,4% về lượng và giảm 61,7% về kim ngạch.