Khoảng 200 doanh nghiệp sắt thép, xi măng, nhiệt điện sẽ tham gia thí điểm thị trường carbon

Nhĩ Anh
Chia sẻ

Trong giai đoạn đầu vận hành thí điểm thị trường carbon, đề xuất trước mắt các doanh nghiệp thuộc 3 lĩnh vực sẽ tham gia là: nhiệt điện, sắt thép và xi măng. Trong giai đoạn thí điểm này dự kiến sẽ có khoảng 200 doanh nghiệp được đưa vào tham gia thị trường...

Trong giai đoạn vận hành thí điểm thị trường carbon, các doanh nghiệp thuộc 3 lĩnh vực sẽ tham gia là: nhiệt điện, sắt thép và xi măng. Ảnh minh họa.
Trong giai đoạn vận hành thí điểm thị trường carbon, các doanh nghiệp thuộc 3 lĩnh vực sẽ tham gia là: nhiệt điện, sắt thép và xi măng. Ảnh minh họa.

Nhằm cung cấp cơ sở khoa học phục vụ quá trình xây dựng và lựa chọn mô hình thiết kế và quản lý thị trường carbon (ETS) của Việt Nam, ngày 16/4/2025, Chương trình Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP) phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường  tổ chức Hội thảo tham vấn “Đánh giá tác động thị trường carbon trong nước của Việt Nam trong giai đoạn thí điểm”.

Đây là Hỗ trợ kỹ thuật “Đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon tại Việt Nam” được Văn phòng Dịch vụ Dự án Liên hợp quốc (UNOPS) tài trợ trong khuôn khổ Chương trình ETP, nhằm hỗ trợ Cục Biến đổi Khí hậu phát triển thị trường carbon tại Việt Nam. Chương trình nhằm phân tích sâu và mô hình hóa tác động của các phương án quản lý tín chỉ carbon và hạn ngạch phát thải khí nhà kính, cung cấp đầu vào cho xây dựng khung pháp lý quốc gia nhằm vận hành thị trường carbon tại Việt Nam.

CHUẨN BỊ CƠ SỞ CHO VẬN HÀNH THÍ ĐIỂM THỊ TRƯỜNG CARBON

Theo ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, để thực hiện mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu, các công cụ định giá carbon, đặc biệt là hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính (ETS)- hay còn gọi là thị trường carbon tuân thủ là một trong các giải pháp quan trọng và hiệu quả, được nhiều quốc gia lựa chọn áp dụng trong đó có Việt Nam.

Việt Nam đã ban hành khung pháp lý cho việc vận hành thị trường carbon. Ông Quang thông tin: tại Điều 139 của Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 đã quy định về “tổ chức và phát triển thị trường carbon” . Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP quy định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn và đang xem xét ban hành Nghị định 06 sửa đổi, bổ sung.

Theo đó, đã có quy định chi tiết về tổ chức và phát triển thị trường carbon, đặt ra lộ trình cụ thể phát triển thị trường carbon với giai đoạn thí điểm từ nay đến hết năm 2028 và vận hành chính thức từ năm 2029.

Các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về danh mục cơ sở phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính đã được ban hành. Đặc biệt, Đề án thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam đã cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để đưa thị trường carbon vào vận hành theo đúng lộ trình đã đề ra. Mục tiêu Đề án đặt ra sẽ vận hành thí điểm sàn giao dịch carbon Việt Nam ngay trong năm 2025.

Do đó, Hỗ trợ kỹ thuật nhằm phân tích, xây dựng mô hình và đánh giá tác động của các phương án thiết kế, quản lý khác nhau cho thị trường carbon từ đó đưa ra những khuyến nghị để Cục Biến đổi khí hậu xem xét trong quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp lý và chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc vận hành hiệu quả thị trường trong giai đoạn thí điểm sắp tới.

Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu nhấn mạnh các vấn đề cần tập trung để khuyến nghị trong báo cáo có luận cứ và khả thi.

Thứ nhất, về các phương án thiết kế thị trường: tính phù hợp và khả thi của các kịch bản về phạm vi ngành tham gia, cách xác định tổng hạn ngạch phát thải (mức trần) và đặc biệt là phương pháp phân bổ hạn ngạch ban đầu (như phân bổ miễn phí, đấu giá hoặc kết hợp với tỷ lệ như thế nào) cho các cơ sở trong giai đoạn thí điểm, dựa trên các phân tích tác động đã thực hiện.

 
Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu.
Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu.
Về phạm thị trường carbon, hiện nay Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ đề xuất các doanh nghiệp thuộc 3 lĩnh vực trước mắt sẽ tham gia thí điểm vào thị trường carbon đó là: nhiệt điện, sắt thép và xi măng.
Dự kiến trong giai đoạn sau sẽ mở rộng thêm các doanh nghiệp ở các lĩnh vực khác. Vậy trong những năm tới nên mở rộng thêm các đối tượng nào để phát triển thị trường carbon?.

Theo đại diện Phòng thị trường carbon, trong giai đoạn thí điểm, thị trường sẽ tập trung vào 3 lĩnh vực: sản xuất sắt thép, xi măng, nhiệt điện. Trong giai đoạn này chỉ các cơ sở lớn được được đưa vào thị trường carbon với dự kiến sẽ có khoảng 200 doanh nghiệp tham gia.

Thứ hai, về tác động kinh tế xã hôi: các kết quả đánh giá tác động đến chi phí sản xuất, năng lực cạnh tranh, đổi mới công nghệ, việc làm… của các phương án ETS khác nhau đối với các doanh nghiệp tham gia thí điểm như: Nhiệt điện, thép, xi măng đã phản ánh đúng thực tiễn và quan tâm của doanh nghiệp chưa?

Để thị trường carbon vận hành hiệu quả, điều kiện tiên quyết là các doanh nghiệp (sắt thép, nhiệt điện, xi măng) phải đảm bảo tình hình sản xuất. Việc tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh doanh của doanh nghiệp là rất quan trọng. Do đó các phương án ETS đưa ra cần phải đảm bảo hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp.

Thứ ba, ông Quang cũng đặt vấn đề về sử dụng tín chỉ carbon để bù trừ. Theo đó, cần đề đặt ra là các quy định về việc sử dụng tín chỉ carbon được tạo ra từ các dự án trong nước để bù trừ phát thải trong hệ thống ETS thí điểm nên được thiết kế như thế nào? Hiện nay trong Nghị định 06 sửa đổi đã đề xuất tỷ lệ này là 30%, Cục Biến đổi khí hậu thông tin.

Thứ tư, để đảm bảo vận hành thị trường carbon, hệ thống ETS cần có hạ tầng và năng lực như hệ thống đăng ký quốc gia, sàn giao dịch, hệ thống MRV (đo đạc, báo cáo, thẩm định) và nhu cầu hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực cần thiết nào là cấp bách nhất để đảm bảo các doanh nghiệp và cơ quan quản lý sẵn sàng tham gia vận hành thị trường thí điểm một cách hiệu quả.

Thứ năm, về quản lý thị trường, từ kinh nghiệm quốc tế và phân tích tác động, những cơ chế nào (như: dự trữ ổn định thị trường, quy định về giá sàn/giá trần…) cần được cân nhắc để quản lý biến động giá và đảm bảo tính thanh khoản, minh bạch và ổn định cho thị trường carbon trong giai đoạn đầu vận hành.

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC PHƯƠNG ÁN QUẢN LÝ ETS GIAI ĐOẠN THÍ ĐIỂM

Để vận hành hiệu quả thị trường carbon thí điểm, các chuyên gia cho rằng cần cân nhắc các phương án thiết kế và quản lý thị trường, đánh giá tác động của từng phương án, và lựa chọn phương án tối ưu, đảm bảo hài hòa giữa nhu cầu phát triển kinh tế và mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính.

Ông John Robert Cotton, Phó Giám đốc Chương trình Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á (ETP) cho rằng việc đánh giá tác động thị trường carbon sẽ là nền tảng quan trọng để có thể tạo hệ thống thị trường trao đổi nội địa ETS. Điều này sẽ góp phần để Việt Nam đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Việc đánh giá tác động sẽ đưa ra được các tham số, các thông số, công cụ đo lường, từ đó Việt Nam có thể triển khai giai đoạn vận hành thí điểm thị trường từ năm 2025-2028, sau đó triển khai chính thức.

Phân tích bối cảnh quốc gia và đề xuất phương án quản lý thị trường carbon, bà Nguyễn Hồng Loan, Giám đốc Công ty GreenCIC cho biết có 10 bước để thiết kế và vận hành thị trường carbon, với 3 nội dung thiết kế gồm: phạm vi, thiết lập hạn mức và phân bổ hạn ngạch.

Hội thảo tham vấn “Đánh giá tác động thị trường carbon trong nước của Việt Nam trong giai đoạn thí điểm”.
Hội thảo tham vấn “Đánh giá tác động thị trường carbon trong nước của Việt Nam trong giai đoạn thí điểm”.

Để phân tích và lựa chọn các ngành/lĩnh vực tham gia vào ETS cần đảm bảo hài hòa lợi ích về giảm phát thải khí nhà kính với lợi ích kinh tế. Do đó, việc tiếp cận tổng thể để xác định phạm vi dựa trên 2 yếu tố chính là cường độ phát thải và cường độ thương mại. Phạm vi lựa chọn lĩnh vực thí điểm ETS của Việt Nam là các doanh nghiệp trong ngành nhiệt điện, sắt thép, xi măng.

Theo phân tích của GreenCIC, nhiệt điện có cường độ phát thải cao, cường độ thương mại thấp sẽ đưa vào giai đoạn thí điểm ETS. Với sắt thép, xi măng có cường độ phát thải cao, cường độ thương mại cao sẽ đưa vào ETS theo lộ trình. Tuy nhiên, việc đưa các ngành này vào giai đoạn đầu của ETS sẽ giúp giảm thiểu tác động tiêu cực trong trường hợp các đối tác thương mại của Việt Nam đã áp dụng giá carbon cũng như cơ chế CBAM với các ngành này.

 
Bà Nguyễn Hồng Loan, Giám đốc Công ty GreenCIC
Bà Nguyễn Hồng Loan, Giám đốc Công ty GreenCIC

Phân bổ hạn ngạch trong giai đoạn thí điểm ETS theo kịch bản NDC không điều kiện để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp làm quen với các quy định và các hoạt động trên thị trường carbon, giảm tác động tiêu cực lên sản xuất kinh doanh và nền kinh tế.

Bà Loan đề xuất phân bổ hạn ngạch trong giai đoạn thí điểm ETS theo kịch bản NDC không điều kiện để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp làm quen với các quy định và các hoạt động trên thị trường carbon, giảm tác động tiêu cực lên sản xuất kinh doanh và nền kinh tế.

Chuyên gia cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác lập tổng hạn ngạch (hạn mức). Việc xác định tổng hạn ngạch rất cần thiết để đảm bảo việc thực hiện ETS đóng góp hiệu quả vào việc đạt được mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam. Vì vậy cần thiết có quy định rõ ràng cùng với công thức và nguồn số liệu minh bạch…

Thông tin về đánh giá tác động của các phương án quản lý ETS giai đoạn thí điểm, nhóm nghiên cứu cho biết đã tập trung vào các tác động với 114 doanh nghiệp gồm 56 cơ sở có sản xuất clinker thuộc lĩnh vực xi măng, 27 cơ sở sản xuất thép thô và 31 cơ sở nhiệt điện, với tổng phát thải khí nhà kính chiếm gần 43% phát thải khí nhà kính quốc gia giai đoạn 2020-2022.

Đánh giá tác động cho thấy việc áp dụng ETS giúp giảm đáng kể tổng chi phí của các doanh nghiệp để đạt được các mục tiêu theo NDC trong tất cả các kịch bản. Ngành nhiệt điện giảm được chi phí tuân thủ nhiều nhất, tiếp theo là sắt thép. Ngành xi măng với lợi thế có chi phí đầu tư giảm phát thải khí nhà kính thấp hơn so với hai ngành còn lại, có thể được hưởng lợi từ cung hạn ngạch ra thị trường. Nhìn chung, chi phí đầu tư ở cả ba ngành tương đối thấp, khoảng từ 0,02% đến dưới 2% tổng đầu tư của ngành.

TS. Hồ Công Hòa, Học viện Chính sách và Phát triển chia sẻ, việc thực hiện các biện pháp nhằm mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính theo NDC đều có tác động làm giảm GDP của nền kinh tế. Tuy nhiên quy mô tác động tương đối nhỏ, chỉ từ 0,00075% đến 0,0208% GDP, trong đó kịch bản đạt được NDC không điều kiện với tỷ lệ sử dụng tín chỉ bù trừ tối đa 20% cho tác động thấp nhất đến nền kinh tế, bao gồm cả tác động đến giá tiêu dùng.

Ngoài ra, việc thực hiện ETS sẽ thúc đẩy tái cấu trúc các ngành phát thải lớn, đồng thời tạo cơ hội phát triển cho các ngành phát thải thấp và công nghệ xanh...

Tin liên quan

Khởi nghiệp

Hồ sơ Startup

Citigo là công ty công nghệ cung cấp những giải pháp đơn giản với chi phí tiết kiệm, giúp khách hàng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Citigo hướng tới tầm nhìn trở thành công ty cung cấp giải pháp công nghệ cho doanh nghiệp phổ biến tại Đông Nam Á
ESBT là công ty hoạt động trọng lĩnh vực công nghệ thông tin, chúng tôi xây dựng những sản phẩm phần mềm cho cộng đồng và cung cấp dịch vụ phát triển phần mềm cho các doanh nghiệp
Lozi là một trong những ứng dụng thương mại điện tử được yêu thích nhất tại Việt Nam, kết nối hàng triệu người mua và người bán nhằm phục vụ nhu cầu mua bán trực tuyến ngày càng cao. Không chỉ là một cầu nối thương mại điện tử đáng tin cậy, Lozi còn cung cấp dịch vụ giao hàng nhanh chóng và tiện lợi chỉ trong 1 giờ, đem đến cho khách hàng những trải nghiệm mua sắm trực tuyến hiệu quả và tối ưu
Bắt nguồn từ mong muốn mang chất lượng dạy Tiếng Anh tại Trường Quốc tế đến với mọi học sinh Việt Nam, để các bạn nhỏ dù không có điều kiện kinh tế theo học tại các Trường Quốc Tế hay Trung Tâm đắt tiền vẫn có thể sử dụng Tiếng Anh tốt như người bản ngữ. Đây chính là hành trang chuẩn bị cho các em tương lai vươn ra thế giới. Chính vì lý do trên, đội ngũ sáng lập đã bắt tay vào xây dựng sản phẩm đầu tiên có tên “Chương trình học Tiếng Anh Online EDUPIA”.
Công ty TNHH SA-ACH định vị về lĩnh vững trồng rừng, phát triển gồm 3 loại cây và bốn tầng cây trên một hecta đất nhằm tạo hệ sinh thái bền vững, và nâng cao thu nhập cho bà con