Luật Công nghiệp công nghệ số giúp Việt Nam tiến tới tự chủ công nghệ
Luật Công nghiệp công nghệ số được thông qua mới đây được cho là một khung pháp lý kịp thời để hỗ trợ Việt Nam đẩy nhanh quá trình tự chủ bằng cách đầu tư vào công nghệ trong nước...

Theo TS.Sreenivas Tirumala, giảng viên cấp cao ngành Công nghệ thông tin, Đại học RMIT Việt Nam, Việt Nam, một nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, đang phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng từ căng thẳng thương mại toàn cầu, bao gồm cả các động thái thuế quan gần đây từ Hoa Kỳ.
"Những diễn biến này đã bộc lộ sự phụ thuộc của Việt Nam không chỉ vào thị trường nước ngoài mà còn vào công nghệ nhập khẩu, đặc biệt trong các lĩnh vực như điện toán đám mây, an ninh mạng và trí tuệ nhân tạo (AI)," ông nhận định.

Ông Tirumala cho rằng đây là "thời điểm thích hợp để Việt Nam xem xét lại chiến lược số của đất nước." Thay vì tiếp tục dựa vào nền tảng và hạ tầng nước ngoài, Việt Nam có thể đẩy nhanh quá trình tự chủ bằng cách đầu tư vào công nghệ trong nước.
TS.Tirumala nhấn mạnh rằng: "Luật Công nghiệp công nghệ số được thông qua mới đây là một khung pháp lý kịp thời để hỗ trợ quá trình chuyển đổi này."
“CHÌA KHÓA” GIẢM PHỤ THUỘC VÀO CÔNG NGHỆ NHẬP KHẨU
Việt Nam hiện đang nhập khẩu phần lớn cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, từ phần cứng, phần mềm đến các dịch vụ đám mây và Internet vạn vật (IoT). "Những công nghệ này chủ yếu đến từ các quốc gia như Mỹ và Israel, có chi phí cao và hạn chế quyền kiểm soát dữ liệu," TS. Tirumala chỉ ra.
Ví dụ, các dịch vụ từ Google, Microsoft và Amazon chịu sự điều chỉnh của luật xuất khẩu Mỹ nên có thể hạn chế quyền truy cập cho nước ngoài tùy theo quan hệ địa chính trị với nước này.
Để khắc phục tình trạng này, TS. Tirumala cho rằng phát triển các nền tảng và công cụ trong nước sẽ giúp giảm thiểu rủi ro trên và mở rộng quyền truy cập cho người dùng Việt Nam.
Ông cũng cho biết thêm: "Các nền tảng, công cụ trong nước sẽ lưu trữ và chia sẻ dữ liệu theo quy định của Việt Nam, qua đó cũng đảm bảo tuân thủ các yêu cầu về quyền riêng tư và chủ quyền dữ liệu trong Luật Công nghiệp công nghệ số."
PHÁT TRIỂN CÁC NỀN TẢNG CÔNG NGHỆ NỘI ĐỊA: ĐÒN BẨY CHO KINH TẾ SỐ
Ngoài các dịch vụ đám mây và an ninh mạng, thị trường tiêu dùng số của Việt Nam cũng bị chi phối bởi các nền tảng nước ngoài như Shopee và Grab.
"Những nền tảng này có phần mềm tiên tiến, tốc độ cao và trải nghiệm người dùng vượt trội, khiến các lựa chọn trong nước khó cạnh tranh," TS.Tirumala thừa nhận. Tuy nhiên, ông tin rằng "với đầu tư đúng đắn vào kỹ năng và hạ tầng, chúng ta có thể khắc phục sự mất cân bằng này."
Ấn Độ được ông đưa ra làm một "ví dụ đáng tham khảo" với các nền tảng nội địa như Ola và Rapido đã thành công trong việc cạnh tranh với Uber bằng cách cung cấp dịch vụ phù hợp với nhu cầu địa phương.
"Các nền tảng Việt Nam có thể đi theo con đường tương tự, đặc biệt khi nhận được ưu đãi tài chính và hỗ trợ kinh phí mua sắm công nghệ mà Luật Công nghiệp công nghệ số đề ra," ông khuyến nghị.
TS.Tirumala cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tự chủ AI. Chẳng hạn, việc phát triển công cụ AI tạo sinh 'made in Việt Nam' sẽ giúp mở rộng quyền truy cập và giảm thiên kiến liên quan đến lợi ích chính trị hoặc thương mại của nước ngoài.
Ngoài ra, việc tự chủ công cụ cũng giúp người dùng Việt Nam không phải đối mặt các quy định quốc tế mang tính hạn chế, đảm bảo họ không bị tước quyền tiếp cận các dịch vụ thiết yếu do quyết định chính sách từ bên ngoài.
Ông cũng nhìn thấy cơ hội rộng hơn khi bùng nổ công nghệ thông tin (CNTT) trong nước còn có thể mở ra cơ hội cho Việt Nam ở khu vực.
Cụ thể, vị trí chiến lược, sự tương đồng văn hóa với các nước ASEAN và trình độ số ngày càng tăng khiến Việt Nam có tiềm năng trở thành trung tâm dịch vụ số trong khu vực.
Ông kỳ vọng Việt Nam có thể xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ công nghệ số sang các nước như Campuchia và Thái Lan – những thị trường có thể mong muốn dịch vụ được 'địa phương hóa' hơn là sản phẩm quốc tế đại trà.
KIẾN TẠO LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG SỐ
TS.Tirumala nhấn mạnh, lợi thế nhân khẩu học của Việt Nam là rất rõ ràng khi cả nước có đến 51,7% dân số dưới 34 tuổi tính đến năm 2024. "Lực lượng lao động trẻ, am hiểu công nghệ này là tài sản lớn trong quá trình chuyển đổi từ sản xuất giá rẻ sang nền kinh tế số”, ông khẳng định.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng còn tồn tại một thách thức khi "chỉ 28,8% người lao động có bằng cấp, chứng chỉ từ sơ cấp trở lên". Theo ông Tirumala, điều này cho thấy khoảng cách đáng kể giữa cung và cầu kỹ năng.
Để giải quyết vấn đề này, ông đề xuất việc hợp tác giữa các trường và doanh nghiệp để thiết kế chương trình đào tạo và đánh giá người học sẽ rất quan trọng.
Về phía Chính phủ, TS.Tirumala kiến nghị Chính phủ nên triển khai các nỗ lực đưa CNTT vào chương trình học từ sớm.
Ngoài ra, cần xem xét hỗ trợ các cơ sở đào tạo nhỏ cung cấp các khóa học nâng cao kỹ năng và cấp chứng chỉ theo nhu cầu của các ngành. "Điều này sẽ giúp một bộ phận người dân không có điều kiện học đại học dễ dàng tiếp cận các khóa học CNTT hơn", ông đề xuất.
TS.Sreenivas Tirumala cho rằng, luật Công nghiệp công nghệ số là một bước đi chiến lược hướng tới chủ quyền số và một nền kinh tế vững bền.
"Bằng cách thúc đẩy đổi mới trong nước, giảm phụ thuộc vào các nền tảng nước ngoài và đầu tư vào nguồn nhân lực, Việt Nam đang đặt nền móng để trở thành quốc gia lãnh đạo nền kinh tế số Đông Nam Á trong dài hạn”, ông khẳng định.