Việt Nam cần khoảng 86 tỷ USD cho lộ trình chuyển dịch năng lượng đến năm 2030
Có 4 vấn đề thách thức lớn đối với triển khai lộ trình chuyển dịch năng lượng đến năm 2030 bao gồm vấn đề về tài chính, công nghệ, quản trị và nhân lực, trong đó thách thức lớn nhất vẫn là vấn đề nguồn vốn...
Ngày 1/6 thảo luận tại hội trường, đại biểu Tạ Đình Thi (TP. Hà Nội) đã phát biểu về vấn đề phát triển đô thị và chuyển dịch năng lượng.
Theo đại biểu, đây là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng, vừa có tính cấp bách trước mắt, vừa có tính chiến lược lâu dài đối với sự phát triển quốc gia và cần thiết được đưa vào trong nghị quyết kỳ họp.
Đối với vấn đề chuyển dịch năng lượng, đại biểu nhận định, “đây là xu hướng tất yếu trên thế giới nhằm giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất, bảo đảm an ninh năng lượng, giảm thiểu tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế xã hội, môi trường và đang được triển khai hiệu quả ở nhiều nước”.
Cùng với cộng đồng quốc tế, tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP 26), Việt Nam đã đưa ra tuyên bố chính trị mạnh mẽ về việc phấn đấu đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Để hiện thực hóa mục tiêu này, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, trong đó có nội dung về chuyển dịch năng lượng.
Tuy nhiên, ông Thi chỉ ra 4 thách thức lớn cho việc triển khai, bao gồm tài chính, công nghệ, quản trị và nhân lực, trong đó thách thức lớn nhất vẫn là nguồn vốn.
Theo ước tính, Việt Nam cần khoảng 86 tỷ USD đến năm 2030 và 370 tỷ USD cho lộ trình chuyển dịch đến năm 2050.
Chỉ riêng đối với việc triển khai Quy hoạch điện VIII, trong giai đoạn 2021-2030, ông Thi cho biết tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải khoảng 134,7 tỷ USD.
Như vậy, nguồn lực đầu tư rất lớn so với khả năng cân đối của nền kinh tế với mức dự báo phát triển kinh tế thế giới và trong nước thời gian tới, ông Thi đánh giá.
Do đó, đại biểu kiến nghị Chính phủ cần sớm nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách đặc thù thu hút, huy động nguồn vốn đầu tư tư nhân và nước ngoài vào các dự án năng lượng, chú trọng các cơ chế tài chính xanh, tín dụng xanh và các tổ chức tài chính quốc tế, cơ chế tài chính quốc tế JETP trên cơ sở bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia”.
Về đô thị hóa, theo đại biểu, quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị là cơ hội tạo ra sự phát triển đột phá về mọi mặt đối với mỗi quốc gia, khu vực, địa phương. Trên thế giới, các đô thị đang đóng góp khoảng 80% GDP toàn cầu.
Ở Việt Nam, đô thị hóa và phát triển đô thị đang trở thành động lực quan trọng phát triển kinh tế xã hội, đóng góp khoảng 70% GDP cả nước. Các đô thị hiện nay chính là các cực tăng trưởng kinh tế và trung tâm đổi mới sáng tạo; khoa học công nghệ; giáo dục, đào tạo; y tế. Điển hình là Thủ đô Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về thể chế, kinh tế, xã hội, môi trường, biến đổi khí hậu.
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật liên quan và gần đây là hai Nghị quyết số 75/2022/QH15 ngày 15/11/2022 về hoạt động chất vấn tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV và số 81/2023/QH15 ngày 9/01/2023 về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 26/2022/UBTVQH15 ngày 21/9/2022 và Nghị quyết số 1210/2016/UBTVQH13 ngày 25/5/2016 về phân loại đô thị.
Để sớm thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, ông Thi kiến nghị Chính phủ cần đẩy nhanh việc nghiên cứu xây dựng Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn, Luật Quản lý phát triển đô thị; hoàn thành phê duyệt Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn, quy hoạch 5 thành phố trực thuộc Trung ương thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050; triển khai hiệu quả các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.