Chuyển đổi số nông nghiệp: Vẫn còn “nỗi sợ vô hình” cản bước hợp tác xã và nông dân
Bảo Bình
29/10/2025
“Nỗi sợ vô hình” phần lớn bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết và thiếu tự tin. Khi nông dân và hợp tác xã chưa thấy được giá trị thực tế của công nghệ, họ sẽ ngần ngại chuyển đổi số...
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm thay đổi sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, nông nghiệp Việt Nam đứng trước yêu cầu cấp thiết phải chuyển đổi mạnh mẽ để thích ứng và phát triển bền vững.
Không chỉ là xu thế tất yếu, chuyển đổi số trong nông nghiệp đang trở thành chìa khóa mở ra cơ hội nâng cao năng suất, chất lượng, giảm chi phí và tăng sức cạnh tranh cho nông sản Việt trên thị trường quốc tế.
Đáng chú ý, dù đã có những bước tiến nhất định trong ứng dụng công nghệ số, nhưng phần lớn các hợp tác xã nông nghiệp vẫn đang ở giai đoạn khởi đầu, đối mặt với không ít rào cản về hạ tầng, nguồn lực và tư duy quản trị.
5 NHÓM THÁCH THỨC CHÍNH TRONG HÀNH TRÌNH CHUYỂN ĐỔI SỐ NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Tại Diễn đàn “Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai” ngày 29/10/2025, bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, nhận định tốc độ chuyển đổi số trong nông nghiệp hiện vẫn chậm hơn nhiều so với các ngành kinh tế khác. Phần lớn nông dân và hợp tác xã vẫn gắn bó với phương thức sản xuất truyền thống, trong khi hạ tầng công nghệ thông tin ở nông thôn còn yếu, nguồn nhân lực công nghệ số lại thiếu hụt nghiêm trọng.
Bà Vân cho rằng các hợp tác xã nông nghiệp đang đối mặt với 5 nhóm thách thức chính trong hành trình chuyển đổi số, bao gồm: tài chính, hạ tầng công nghệ, nhân lực, chiến lược phát triển và khả năng tiếp cận chính sách.
“Chi phí đầu tư cho công nghệ số trong nông nghiệp khá lớn, nhưng đa phần hợp tác xã lại khó tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi”, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nói. “Về hạ tầng, nhiều vùng nông thôn, đặc biệt là vùng sâu vùng xa, vẫn chưa có đường truyền internet ổn định. Nông dân chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng số, còn đội ngũ chuyên gia công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp lại khan hiếm”.
Bên cạnh đó, khung pháp lý và chính sách hỗ trợ cho chuyển đổi số trong nông nghiệp vẫn chưa hoàn thiện. Cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương còn thiếu đồng bộ, khiến việc triển khai các mô hình số hóa gặp nhiều trở ngại.
Một khảo sát gần đây của Liên minh hợp tác xã Việt Nam cho thấy mức độ chuyển đổi số trung bình của hợp tác xã cả nước mới đạt khoảng 32%. Trong gần 35.000 hợp tác xã, chỉ 13,6% đã hoàn tất chuyển đổi số, 50% đang triển khai, và 36,4% chưa bắt đầu.
“Nhiều hợp tác xã và nông dân vẫn hiểu chưa đúng về bản chất của chuyển đổi số, thường nhầm lẫn nó với việc chạy theo những công nghệ “hào nhoáng” như AI, blockchain, Big Data hay IoT”
Tuy nhiên, theo bà Vân, trở ngại lớn nhất không chỉ nằm ở hạ tầng hay vốn, mà còn đến từ rào cản tâm lý. “Nhiều hợp tác xã và nông dân vẫn hiểu chưa đúng về bản chất của chuyển đổi số, thường nhầm lẫn nó với việc chạy theo những công nghệ “hào nhoáng” như AI, blockchain, Big Data hay IoT”, bà nói.
Thực tế, chuyển đổi số trong nông nghiệp không phải là cuộc chạy đua công nghệ, mà là một quá trình chiến lược giúp nâng cao năng lực số trong các hoạt động cốt lõi, từ sản xuất, quản lý, truy xuất nguồn gốc, giám sát chất lượng nông sản, đến kết nối cung cầu, quản trị nhân sự và marketing.
Một nguyên nhân khác khiến quá trình số hóa chậm lại là sự xung đột giữa ưu tiên ngắn hạn và lợi ích dài hạn. “Các hợp tác xã và doanh nghiệp nông nghiệp thường tập trung giải quyết bài toán sống còn trước mắt, trong khi chuyển đổi số lại thuộc nhóm công việc ‘quan trọng nhưng không cấp bách’, nên dễ bị gác lại”, bà Vân chỉ rõ.
Theo bà, “nỗi sợ vô hình” đối với công nghệ phần lớn bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết và thiếu tự tin. “Người ta thường sợ những gì chưa hiểu rõ. Khi nông dân và hợp tác xã chưa thấy được giới hạn và giá trị thực tế của công nghệ, họ sẽ ngần ngại bước vào hành trình số hóa”, bà nói.
Giải pháp, theo bà Vân, không phải là “tô vẽ công nghệ như một phép màu”, mà là giúp nông dân hiểu đúng – làm đúng – và hợp tác đúng cách để tạo ra giá trị. “Sự nghi ngờ không phải là điểm yếu, mà là dấu hiệu của sự thận trọng. Nếu được hướng dẫn, hỗ trợ và khuyến khích đúng mức, nông dân và hợp tác xã hoàn toàn có thể vượt qua nỗi sợ, để nắm bắt cơ hội chuyển đổi số và thích ứng với tương lai bền vững hơn”.
LIÊN KẾT CHUỖI GIÁ TRỊ VÀ XÂY DỰNG HỆ SINH THÁI SỐ CHO NÔNG NGHIỆP
Theo TS. Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hai trụ cột quan trọng của nền nông nghiệp hiện đại chính là liên kết chuỗi giá trị và xây dựng hệ sinh thái số. Đây là nền tảng để nâng cao năng lực cạnh tranh, minh bạch hóa quy trình sản xuất – tiêu thụ, và tạo dựng niềm tin trên thị trường trong nước và quốc tế.
Ông Thịnh cũng cho rằng Việt Nam là quốc gia có nền nông nghiệp phát triển mạnh, được quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số trong nông nghiệp, đặc biệt trong khu vực kinh tế tập thể và hợp tác xã, vẫn còn chậm so với nhiều quốc gia trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan hay các nước EU.
Cụ thể, TS Thịnh cho biết tại Trung Quốc, nền tảng số quốc gia về nông nghiệp đã được triển khai đến từng hợp tác xã, từng trang trại, gắn với hệ thống quản lý cấp địa phương. Ở Thái Lan, hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử được áp dụng bắt buộc đối với nông sản xuất khẩu. “Trong khi đó, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống truy xuất số vận hành đồng bộ, khiến chúng ta chậm hơn trong tiến trình hội nhập”, TS. Lê Đức Thịnh nói.
Tình trạng liên kết trong nông nghiệp ở Việt Nam còn lỏng lẻo, thiếu chiều sâu, chỉ khoảng 25% hợp tác xã tham gia vào các mô hình liên kết, cho thấy tỷ lệ liên kết bền vững còn thấp.
Phần lớn các mối liên kết vẫn mang tính ngắn hạn, chủ yếu dừng ở khâu mua – bán, bao tiêu sản phẩm theo mùa vụ, thiếu cơ chế chia sẻ rủi ro và lợi ích chung.
Tình trạng liên kết trong nông nghiệp ở Việt Nam còn lỏng lẻo, thiếu chiều sâu, chỉ khoảng 25% hợp tác xã tham gia vào các mô hình liên kết, cho thấy tỷ lệ liên kết bền vững còn thấp. Phần lớn các mối liên kết vẫn mang tính ngắn hạn, chủ yếu dừng ở khâu mua – bán, bao tiêu sản phẩm theo mùa vụ, thiếu cơ chế chia sẻ rủi ro và lợi ích chung.
Thiếu hệ thống giám sát và công cụ truy xuất dữ liệu cũng khiến việc kiểm soát chất lượng nông sản còn nhiều hạn chế. Động lực đầu tư vùng nguyên liệu yếu, nhiều doanh nghiệp chỉ tham gia ở khâu tiêu thụ mà chưa đồng hành cùng nông dân trong sản xuất. Nguyên nhân chính là năng lực của hợp tác xã còn yếu, hạ tầng sản xuất – kinh doanh, kho bãi, logistics và chế biến chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình chuyển đổi và liên kết bền vững.
TS Thịnh cho rằng nông nghiệp Việt Nam cần chuyển sang mô hình hệ sinh thái số để đáp ứng ba yêu cầu cấp thiết.
Thứ nhất, thị trường quốc tế ngày càng khắt khe, đòi hỏi nông sản không chỉ đạt chuẩn chất lượng mà còn phải “xanh” – giảm phát thải, minh bạch nguồn gốc và bảo đảm lao động bền vững.
Thứ hai, liên kết truyền thống thiếu dữ liệu và niềm tin, khi doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân chưa có cơ chế chia sẻ thông tin rõ ràng.
Thứ ba, công tác quản lý nhà nước chậm đổi mới, quy định về chuyển đổi số trong liên kết chuỗi giá trị chưa được thể chế hóa đồng bộ.
“Hệ sinh thái số không chỉ là công cụ sản xuất, mà là cuộc cách mạng về niềm tin và dữ liệu, giúp các chủ thể minh bạch hóa thông tin, chia sẻ lợi ích và vận hành chuỗi giá trị một cách thống nhất, bền vững”, TS. Lê Đức Thịnh nói.
NÔNG NGHIỆP LÀ MỘT TRONG NHỮNG LĨNH VỰC KHÓ NHƯNG XỨNG ĐÁNG NHẤT ĐỂ THỰC HIỆN CHUYỂN ĐỔI SỐ
Bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, cho biết để hiện thực hóa mục tiêu chuyển đổi số trong khu vực kinh tế hợp tác theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đang triển khai 4 nhóm giải pháp trọng tâm cho giai đoạn 2026 – 2030.
Thứ nhất, tăng cường truyền thông và đào tạo nhằm nâng cao nhận thức về chuyển đổi số trong nông nghiệp. Các hợp tác xã sẽ được tham gia tập huấn, chia sẻ mô hình điển hình, đồng thời đào tạo kỹ năng số cho nông dân và thu hút nhân lực công nghệ về khu vực nông nghiệp.
Thứ hai, hỗ trợ tài chính và tiếp cận vốn dài hạn cho hợp tác xã, đơn giản hóa thủ tục vay để đầu tư hạ tầng công nghệ, số hóa dữ liệu và nâng cấp phần mềm quản lý.
Thứ ba, Liên minh hợp tác xã Việt Nam sẽ đóng vai trò trung tâm điều phối hệ sinh thái hợp tác xã số, phát triển các nền tảng số dùng chung, kết nối và hỗ trợ hợp tác xã ứng dụng công nghệ, hướng tới một môi trường hoạt động đồng bộ và bền vững.
Thứ tư, kiến nghị Chính phủ ban hành Chương trình hỗ trợ chuyển đổi số khu vực kinh tế tập thể giai đoạn 2026 – 2030 với nguồn ngân sách ổn định, đồng thời huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp xanh và bền vững.
Bên cạnh đó, bà Vân nhấn mạnh cần tăng cường liên kết giữa hợp tác xã với doanh nghiệp, tổ chức khoa học – công nghệ, thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn theo chuỗi giá trị. Đồng thời, đầu tư mạnh cho hạ tầng số nông thôn, nâng cấp đường truyền internet, xây dựng trung tâm dữ liệu nông nghiệp và khuyến khích các mô hình nông nghiệp thông minh, tạo nền tảng cho quá trình chuyển đổi số lan tỏa sâu rộng trong toàn ngành.
TS. Trần Duy Ninh, Cục trưởng Cục chuyển đổi số quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ, cho rằng nông nghiệp là một trong những lĩnh vực khó nhưng xứng đáng nhất để thực hiện chuyển đổi số.
“Hiện nay, nông nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, hạ tầng còn yếu, điều kiện kết nối hạn chế. Tuy nhiên, nếu các hợp tác xã vùng sâu, vùng xa có thể dùng các nền tảng số để bán sản phẩm ra thế giới, thì đó mới thực sự là thành công của chuyển đổi số quốc gia”, TS. Trần Duy Ninh nói.
Việt Nam cần 200.000 nhân sự trong lĩnh vực blockchain, fintech và AI đến 2025.
Khám phá sức mạnh của marketing lượng tử trong bối cảnh khủng hoảng niềm tin tại Việt Nam. Đọc ngay để hiểu rõ hơn!
Việt Nam cần chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghệ lượng tử trong 5-10 năm tới để không tụt hậu.
Chủ tịch ViSecurity Ngô Tuấn Anh nhấn mạnh tầm quan trọng của sản phẩm an ninh mạng nội địa tại Việt Nam.
Khi dữ liệu bị đánh cắp, mất mát lớn nhất không chỉ là tài sản, mà là niềm tin vào công nghệ và xã hội.
Tọa đàm Việt Nam - Australia khám phá cơ hội hợp tác chuyển đổi số giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo.
Khám phá dự báo tăng trưởng mạnh mẽ của Grab từ Maybank trong giai đoạn 2025-2027, bất chấp bối cảnh tiêu dùng suy yếu.