Đất hiếm cho ngành ô tô của Việt Nam: Tiềm năng lớn nhưng khó làm chủ
Với trữ lượng lớn thứ hai thế giới, đất hiếm tại Việt Nam không chỉ có giá trị kinh tế cao mà còn là điều kiện trao đổi công nghệ cao trong nhiều ngành, trong đó có ngành công nghiệp ô tô. Tuy nhiên, việc khai thác, xuất khẩu đất hiếm ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có.
Trữ lượng lớn chỉ sau Trung Quốc
Đất hiếm (tên tiếng Anh: Rare-earth element) là tên gọi chung của một nhóm gồm 17 nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn, bao gồm: Scandi (Sc), Ytri (Y) và 15 nguyên tố của nhóm Lanthan (La, Ce, Pr, Nd, Pm, Sm, Eu, Gd, Tb, Dy, Ho, Er, Tm, Yb, Lu).
Mặc dù các nguyên tố kể trên không phải dạng hiếm trên thế giới, nhưng lại có rất ít nơi tích trữ nhiều loại nguyên tố cùng lúc và có trữ lượng đủ lớn để khai thác có hiệu quả.
Ngày nay, đất hiếm là tài nguyên quý tạo nên nhiều nguyên liệu quan trọng sản xuất các sản phẩm công nghệ cao như: đồ điện tử, laser, vật liệu siêu dẫn, chất phát quang, chất xúc tác, quang điện, thiết bị y tế… Trong đó, những ngành, lĩnh vực sử dụng các loại nguyên tố này nhiều nhất phải kể đến là ô tô, xe máy điện, điện thoại di động và các sản phẩm công nghệ khác.
Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, ước tính trữ lượng đất hiếm ở nước ta có khoảng 22 triệu tấn, chỉ đứng sau Trung Quốc (khoảng 44 triệu tấn). Một số quốc gia có trữ lượng đất hiếm lớn khác như: Brazil có khoảng gần 22 triệu tấn, Nga có khoảng 21 triệu tấn, Ấn Độ có khoảng gần 7 triệu tấn…
Tại Việt Nam, các mỏ đất hiếm có trữ lượng lớn đều tập trung ở các tỉnh phía Tây Bắc Bộ. Trong đó, mỏ Nậm Xê (Lai Châu) có diện tích 125,98 km2, trữ lượng ước tính khoảng 10 triệu tấn; mỏ Đông Pao (Lai Châu) diện tích 53,99 km2, trữ lượng ước tính từ 8 đến 10 triệu tấn; mỏ Mường Hum (Lào Cai) diện tích 26,84 km2, chưa có số liệu cụ thể; mỏ Yên Phú (Yên Bái) có trữ lượng ước tính khoảng 20.000 tấn. Ngoài ra, còn một số mỏ đất hiếm với trữ lượng thấp hơn nhưng có nhiều tiềm năng khai thác như mỏ Kỳ Ninh (Hà Tĩnh), mỏ Kẻ Sung (Thừa Thiên - Huế), mỏ Cát Khánh (Bình Định), mỏ Hàm Tân (Bình Thuận).
Đối với các nguyên liệu cấu thành pin lithium trên các dòng xe điện hiện nay, lithium là một trong các nguyên liệu chính để làm điện cực âm. Nguyên liệu này có nhiều tại mỏ La Vi (Quảng Ngãi) với trữ lượng khoảng 1 triệu tấn quặng, đứng thứ 4 thế giới.
Ngoài lithium, các dòng xe điện, bao gồm cả xe thuần điện và các dòng xe hybrid còn phụ thuộc nhiều vào các nguyên tố đất hiếm. Trong đó, Cerium (Ce) dùng để làm bộ chuyển đổi xúc tác, một thiết bị trong hệ thống kiểm soát khí thải. Nam châm vĩnh cửu trên mô-tơ điện được cấu thành từ các nguyên tố như Dysprosium (Dy), Neodymium (Nd) và Samarium (Sm). Bên cạnh đó, Gadolinium (Gd) là nguyên liệu quan trọng trong cả động cơ điện và pin xe điện.
Cũng theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt Nam đã bắt đầu khai thác đất hiếm kể từ năm 2014. Tuy nhiên, việc khai thác mới chỉ dừng lại ở việc phân tách đơn giản, chủ yếu xuất khẩu dưới dạng quặng thô, giá thành không cao. Nguyên nhân chính là do Việt Nam chưa có công nghệ chế biến sâu đối với các loại nguyên tố này. Bên cạnh đó, có nhiều nguyên tố đất hiếm có tính phóng xạ cao, độc hại, nếu khai thác không đúng quy trình kỹ thuật, không có công nghệ hỗ trợ sẽ có thể hủy hoại môi trường trên diện rộng. Do đó, không chỉ tại Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới, dù có mỏ quặng nhưng chưa đi sâu khai thác đất hiếm.
Cơ hội chuyển giao công nghệ cao
Dù khai thác đất hiếm là một hoạt động tiêu tốn nhiều tiền của và những đánh đổi về môi trường, nhưng đây cũng là cơ hội tốt cho ngành công nghiệp Việt Nam nói chung và công nghiệp ô tô nói riêng nếu biết cách tận dụng thế mạnh do đất hiếm đem lại.
Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy, “ván bài” đặt cược vào ô tô điện đã và đang đem lại sự phát triển vượt bậc cho ngành công nghiệp của quốc gia hơn 1,4 tỷ dân. Trong đó, đất hiếm được ví như những “viên gạch” xây nên những cấu kiện quan trọng nhất của một chiếc xe như pin, động cơ điện. Bên cạnh đó, với vị thế là công xưởng của thế giới, Trung Quốc có sức mạnh cạnh tranh lớn với hàng trăm công ty công nghệ, nhà sản xuất cùng lao vào cuộc đua xe điện.
Không chỉ có trữ lượng đất hiếm lớn nhất thế giới, Trung Quốc còn đang chiếm gần 89% công suất phân tách, 90% công suất lọc đất hiếm toàn cầu. Theo Nikkei Asia, để tăng cường khả năng kiểm soát đất hiếm, từ cuối năm 2021, Trung Quốc đã tái cơ cấu, sáp nhập 3 nhà sản xuất đất hiếm trở thành một công ty nhà nước. Công ty này chiếm gần 70% hạn ngạch sản xuất đất hiếm nội địa của Trung Quốc. Như vậy, quốc gia này đang nắm giữ chuỗi cung ứng đất hiếm trên toàn cầu.
Thời điểm trước năm 2018, Mỹ đã phải chuyển giao một số công nghệ, linh kiện bán dẫn và chip điện tử cho Trung Quốc, bù lại sẽ được nhập khẩu đất hiếm đã qua phân tách, sàng lọc với mức giá ưu đãi. Tuy nhiên, kể từ khi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung xảy ra, Mỹ đã dần hạn chế hoạt động này; ngược lại, Trung Quốc cũng hạn chế xuất khẩu đất hiếm sang Mỹ.
Theo đó, để dần thoát khỏi sự phụ thuộc vào các nhà máy ở Trung Quốc, Mỹ, các quốc gia đồng minh và một số cường quốc châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc bắt đầu tìm kiếm những thị trường đất hiếm mới. Việt Nam, với trữ lượng đất hiếm lớn thứ hai thế giới đã được các quốc gia nhắm đến để hợp tác đầu tư.
Cuối năm 2022, Việt Nam và Hàn Quốc đã đạt được thỏa thuận nâng hạn mức xuất khẩu đất hiếm từ 1.000 tấn/năm lên mức 2.000 tấn/năm. Tháng 6/2023, Việt Nam và Hàn Quốc đã ký kết một bản ghi nhớ thiết lập một trung tâm dây chuyền cung cấp đất hiếm và các khoáng sản quan trọng khác. Về bản chất, đây là hợp tác đôi bên cùng có lợi. Hàn Quốc bán công nghệ để đổi lấy khoáng sản. Việt Nam vừa có được công nghệ mới, vừa có cơ hội gia nhập vào chuỗi cung ứng với các nhà sản xuất ô tô hàng đầu Hàn Quốc như Hyundai, Kia…
Dĩ nhiên, việc khai thác, xuất khẩu đất hiếm cần phải đảm bảo hài hòa giữa lợi ích quốc gia và bảo vệ ngu tài nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường. Khi việc chuyển giao công nghệ được hoàn thành, Việt Nam có thể tiến tới hoạt động phân tách, sàng lọc đất hiếm để tạo ra sản phẩm chất lượng cao, cung ứng cho thị trường nội địa và hướng đến xuất khẩu.
Ngày 18/7/2023, Chính phủ phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, giai đoạn từ 2021-2030, Việt Nam sẽ khai thác khoảng 2 triệu tấn quặng đất hiếm nguyên khai/năm. Trong đó, 2 mỏ quặng được tập trung đầu tư khai thác là mỏ Yên Phú (Yên Bái) và mỏ Đông Pao (Lai Châu).
Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ hoàn thành đầu tư nhà máy chế biến đất hiếm tại Yên Bái. Giai đoạn từ 2031 - 2050 sẽ tiếp tục thăm dò bổ sung các mỏ đất hiếm đã được cấp phép khai thác và thăm dò mới từ 1 - 2 điểm mỏ tại Lai Châu và Lào Cai. Hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến sẽ gắn với nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới.