Gánh hậu quả nặng nề thời gian trước, ngành đóng tàu trị giá hàng trăm tỷ USD chưa hết nguy khó
Với tiềm năng, lợi thế của một quốc gia có hơn 3.000 km bờ biển, Đại biểu Lã Thanh Tân, Đoàn đại biểu Quốc hội TP. Hải Phòng, cho rằng ngành vận tải biển, đóng mới và sửa chữa tàu biển còn yếu và thiếu...
Tham gia phát biểu tại hội trường về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2023; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2024 vừa qua, Đại biểu Lã Thanh Tân, Đoàn đại biểu Quốc hội TP. Hải Phòng, đưa ra nhiều giải pháp phát triển ngành công nghiệp đóng tàu.
Theo đại biểu Lã Thanh Tân, Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đề ra những chủ trương lớn phát triển các ngành kinh tế biển, trong đó phát triển thành công đột phá về các ngành theo thứ tự ưu tiên.
Về kinh tế hàng hải, trọng tâm là khai thác hiệu quả cảng biển và dịch vụ vận tải, đẩy mạnh phát triển đội tàu biển với cơ cấu hợp lý, ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu thị trường vận tải nội địa, tham gia sâu vào các chuỗi cung ứng vận tải, từng bước tham gia chiếm lĩnh thị phần quốc tế.
Về công nghiệp ven biển, ưu tiên phát triển hợp lý các ngành sửa chữa và đóng tàu, cơ khí, chế tạo công nghiệp phụ trợ...
"Mặc dù kinh tế biển chúng ta đã đạt được một số thành tựu quan trọng, tuy nhiên chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của một quốc gia có hơn 3.000 km bờ biển, trong đó một số ngành như vận tải biển, đóng mới và sửa chữa tàu biển còn yếu và thiếu".
Đại biểu Lã Thanh Tân nêu rõ rất nhiều nhà máy, xưởng đóng tàu đã được Nhà nước đầu tư rất lớn hiện đang dừng hoặc hoạt động kém hiệu quả.
Cũng theo Đại biểu Lã Thanh Tân, thời gian qua, ngành đóng tàu ở nước ta đã, đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như thiếu nguồn nhân lực do phần lớn đều coi đây là ngành nặng nhọc.
Bên cạnh đó, do yêu cầu của thị trường và những quy định của công ước quốc tế, các thế hệ tàu mới phải đảm bảo tính an toàn cao, đa dạng về chủng loại, kích thước, mẫu mã, đặc biệt trong gia công sản xuất phải theo hướng xanh, bảo vệ môi trường.
Tại Việt Nam, các nhà máy đóng tàu lớn đa số thuộc Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (SBIC), tuy nhiên các doanh nghiệp này nhiều năm qua không được đầu tư đổi mới công nghệ nên khá vất vả trong việc cạnh tranh với nước ngoài.
Đặc biệt, các doanh nghiệp còn đang chịu hậu quả nặng nề từ việc đầu tư dàn trải của thời gian trước nên rất khó khăn về tài chính, không đáp ứng được các yêu cầu thông thường về tài chính quốc tế khi đóng tàu.
Theo đánh giá của ông Tân, hiện nay, nhu cầu đóng mới tàu trên thế giới tăng cao do xu hướng đổi mới trong vận hành tàu theo hướng xanh, nhiều công ước quốc tế mới áp dụng cho tàu biển và nhiều ngành công nghiệp ngoài khơi cũng cần tàu biển dịch vụ cỡ nhỏ.
Theo xu hướng này, các nhà máy đóng tàu Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận nhiều hơn với đơn hàng, với đội ngũ nhân lực đóng tàu khá lành nghề và chi phí nhân công thấp, nên chúng ta có những thế mạnh trong cạnh tranh với khu vực và quốc tế. Theo số liệu nghiên cứu tiềm năng của ngành đóng tàu Việt Nam, có thể tạo ra giá trị ước tính khoảng 200 tỷ USD/năm.
Để phát huy được lợi thế và hạn chế sự lãng phí của nguồn lực ngành đóng tàu, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu Nghị quyết số 36 của Trung ương, đại biểu Quốc hội TP. Hải Phòng đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan tâm 5 nội dung.
Một, cần đánh giá đúng vai trò và có cách nhìn thỏa đáng về ngành đóng tàu. Chúng ta cần coi đây là ngành công nghiệp xương sống để tạo điều kiện cho nhiều ngành công nghiệp khác như luyện kim, cơ khí, kinh tế biển cùng phát triển.
Hai, sớm có các chính sách hỗ trợ về tài chính như: ưu đãi vốn vay cho các doanh nghiệp đóng tàu, hỗ trợ bảo lãnh không chỉ đối với đóng tàu mà còn các ngành phụ trợ khác, giảm thuế đất cho các doanh nghiệp đóng tàu.
Ba, đầu tư hỗ trợ cho công tác đào tạo nguồn nhân lực cho đóng tàu, khuyến khích, hỗ trợ di chuyển nhân lực, khuyến khích phát triển nghiên cứu khoa học liên quan đến công nghiệp đóng tàu cũng như công nghiệp phụ trợ.
Bốn, tiếp tục đầu tư kết hợp với phát triển và hiện đại hóa đội tàu biển Việt Nam gắn với phát triển ngành công nghiệp đóng tàu và vận tải biển, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội cùng với tăng cường củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh trên biển, có chính sách để hỗ trợ các chủ tàu lớn, phát triển đội tàu hiện đại, hỗ trợ đầu ra cho các doanh nghiệp đóng tàu.
Năm, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thủ tục đăng ký, đăng kiểm tàu, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại các cảng biển, quy hoạch phát triển, tập trung nguồn lực đầu tư, xây dựng các cảng biển trọng điểm, cảng biển thông minh, hiện đại tại các miền Bắc, Trung, Nam để tăng năng lực cạnh tranh với các cảng biển quốc tế.
Chính phủ mới đây ban hành Nghị quyết số 220/NQ-CP ngày 22/12/2023 về Kế hoạch thực hiện chủ trương xử lý Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy (SBIC) theo hướng phá sản Công ty mẹ - SBIC và 7 công ty con là công ty TNHH MTV đóng tàu Hạ Long, Phà Rừng, Bạch Đằng, Thịnh Long, Cam Ranh; Công ty TNHH MTV Công nghiệp tàu thủy Sài Gòn và Công ty TNHH MTV Đóng tàu và công nghiệp hàng hải Sài Gòn. Cùng đó, thu hồi phần vốn của Công ty mẹ - SBIC tại Công ty cổ phần Đóng tàu Sông Cấm; Tiếp tục xử lý đối với các doanh nghiệp thuộc SBIC, thu hồi tài sản và quyền tài sản của Công ty mẹ - SBIC và 7 công ty con tại các doanh nghiệp này.
Bộ Giao thông vận tải cũng được giao chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, các bộ, ngành có liên quan, trình Thủ tướng phê duyệt đề án nâng cao năng lực các doanh nghiệp đóng tàu trong nước trong quý 1/2025.
Năm 2024, SBIC đặt chỉ tiêu triển khai đóng mới 83 sản phẩm với giá trị doanh thu dự kiến 2.254 tỷ đồng; giá trị sản xuất dự kiến đạt 3.866 tỷ đồng; giá trị doanh thu dự kiến đạt 3.299 tỷ đồng.