Giải bài toán “khoảng trống nhân lực lượng tử” của Việt Nam
Huyền Thương
27/10/2025
Thị trường lao động chưa ghi nhận nhu cầu cao về các vị trí việc làm gắn với công nghệ lượng tử. Trong 5 - 10 năm tới, khi các ứng dụng như truyền thông lượng tử, cảm biến lượng tử hay máy tính lượng tử dần được triển khai, khoảng trống nhân lực chắc chắn sẽ lộ rõ...
Việt Nam cần giải quyết bài toán "khoảng trống nhân lực lượng tử" để không tụt hậu trong cuộc cách mạng công nghệ lượng tử đang diễn ra trên toàn cầu. Mặc dù vật lý lượng tử đã được giảng dạy tại các trường đại học Việt Nam, nguồn nhân lực cho công nghệ lượng tử vẫn còn hạn chế do chương trình đào tạo chưa cập nhật, cơ sở vật chất lạc hậu và thiếu kinh nghiệm thực hành.
Theo ông Nguyễn Quốc Hưng, Phó Chủ tịch VnQuantum, Việt Nam gần như chưa hình thành nguồn nhân lực cho công nghệ lượng tử, lĩnh vực đã có những bước đột phá mạnh mẽ trong hai thập kỷ gần đây. PGS.TS. Phạm Trần Vũ, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa TP.HCM, cũng cho rằng cần có góc nhìn thận trọng khi bàn đến câu chuyện “thiếu hụt nhân lực lượng tử” ở Việt Nam hiện nay. Bởi vì thực tế, thị trường lao động trong nước chưa ghi nhận nhiều nhu cầu trực tiếp từ doanh nghiệp hay tổ chức đối với các vị trí gắn với công nghệ lượng tử.
Tuy nhiên, trong 5-10 năm tới, khi các ứng dụng như truyền thông lượng tử, cảm biến lượng tử hay máy tính lượng tử dần được triển khai, khoảng trống về nhân lực chắc chắn sẽ lộ rõ. Việt Nam cần chuẩn bị nguồn nhân lực cho việc chuyển đổi sang mã hóa hậu lượng tử, đặc biệt là trong lĩnh vực truyền thông lượng tử.
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, Phó Chủ tịch VnQuantum Nguyễn Quốc Hưng cho biết điểm yếu lớn nhất là Việt Nam gần như chưa hình thành nguồn nhân lực cho công nghệ lượng tử – lĩnh vực đã có những bước đột phá mạnh mẽ trong hai thập kỷ gần đây.
Mặc dù vậy, một tín hiệu tích cực là đội ngũ nhà khoa học và kỹ sư lượng tử Việt Nam đang học tập, làm việc tại các trung tâm nghiên cứu hàng đầu quốc tế. Họ đóng vai trò nòng cốt trong mạng lưới công nghệ lượng tử Việt Nam, góp phần kết nối tri thức toàn cầu với trong nước.
Để giải quyết vấn đề này, Việt Nam cần có định hướng đào tạo và xây dựng chương trình lượng tử phù hợp. PGS.TS. Phạm Trần Vũ cho rằng cần có cách tiếp cận kết hợp giữa tích hợp liên ngành và xây dựng dần các chương trình chuyên sâu để vừa tận dụng được hạ tầng sẵn có, vừa tạo nguồn nhân lực nòng cốt cho sự phát triển lâu dài của công nghệ lượng tử.
Nhiều trường đại học đã bắt đầu tích hợp các học phần về công nghệ lượng tử và tính toán lượng tử vào chương trình đào tạo của các ngành liên quan. Các trường và viện nghiên cứu cũng đã triển khai các đề tài, dự án chuyên sâu, xây dựng phòng thí nghiệm, trung tâm nghiên cứu, đồng thời tuyển dụng và bồi dưỡng giảng viên, nghiên cứu viên có chuyên môn về lĩnh vực này. Việt Nam cũng đang thúc đẩy hợp tác quốc tế để tiếp cận tri thức mới, chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực theo chuẩn quốc tế.
Ông Nguyễn Quốc Hưng nhấn mạnh công nghệ lượng tử có khả năng tạo ra những bước nhảy vọt về năng lực khoa học và sức mạnh kinh tế. Các cường quốc như Mỹ, Trung Quốc, Liên minh châu Âu, Nhật Bản đang đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực này để chiếm lĩnh lợi thế chiến lược. Việt Nam cần đạt tự chủ về công nghệ chiến lược này.
Mạng lưới VNQuantum đã đưa ra ba kiến nghị lớn để phát triển công nghệ lượng tử tại Việt Nam. Thứ nhất, tập trung đầu tư phát triển hạ tầng nghiên cứu tiên phong, hình thành các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia. Thứ hai, coi phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt thông qua đào tạo đại học, sau đại học về công nghệ lượng tử. Thứ ba, khuyến khích mạnh mẽ mô hình hợp tác công tư và hợp tác quốc tế.
Ông Phan Tuấn Tài, Trưởng ban phụ trách đối ngoại của VnQuantum, cho rằng hợp tác quốc tế là điều tất yếu và cần được triển khai hiệu quả. Việc đào tạo và phát triển đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực này tại Việt Nam sẽ góp phần nâng cao vị thế và giá trị của đất nước trên bản đồ công nghệ toàn cầu.
Trong thời gian tới, Mạng lưới Lượng tử quốc gia (VnQuantum) dự kiến sẽ mời các doanh nghiệp công nghệ lượng tử quốc tế sang Việt Nam để giới thiệu những thành tựu và giải pháp mới nhất, tạo cơ hội cho sinh viên Việt Nam tiếp cận trực tiếp với các công ty hàng đầu thế giới.
Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác như Nhật Bản, nơi đã sớm nhận thấy tầm quan trọng của việc đầu tư vào nguồn nhân lực lượng tử và đặt mục tiêu đào tạo hàng ngàn chuyên gia trong lĩnh vực này mỗi năm. Đầu tư bài bản vào nhân lực không chỉ là bước đi cần thiết, mà còn là nền tảng then chốt giúp Việt Nam nắm bắt cơ hội, từng bước tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu trong kỷ nguyên lượng tử. Đại học Quốc gia Hà Nội đã thành lập Viện Công nghệ lượng tử và đang hoàn thiện chương trình thạc sĩ truyền thông lượng tử để đào tạo nguồn lực chất lượng cao cho lĩnh vực này.
Nội dung đầy đủ của bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 41-2025 phát hành ngày 13/10/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://vneconomy.vn/don-doc-tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-43-2025.htm
Thị trường thiết bị E-ink tại Việt Nam sôi động với nhiều thương hiệu, mở rộng lựa chọn cho người dùng và thúc đẩy ứng dụng AI trong giáo dục.
Tiêu chuẩn bền vững tự nguyện giúp doanh nghiệp nông sản Việt Nam nâng cao uy tín và giảm rủi ro xuất khẩu, mở rộng cơ hội ra thị trường quốc tế.
Nông nghiệp công nghệ cao đóng vai trò quan trọng trong phát triển khởi nghiệp sáng tạo, kết nối doanh nghiệp và nhà đầu tư tại Việt Nam.
Cộng đồng Đổi mới Sáng tạo Mở Xã hội được kỳ vọng thúc đẩy giải pháp công nghệ mới, mang lại giá trị kinh tế và xã hội cho mọi nhóm cộng đồng.
Giáo sư Durreen Shahnaz nhấn mạnh tiềm năng đầu tư tác động tại Việt Nam, với hàng tỷ đô la có thể được huy động cho phát triển bền vững.
Hạ tầng blockchain Việt Nam cần cân bằng giữa chủ quyền dữ liệu và hiệu năng, theo yêu cầu từ Hội thảo do VBA tổ chức.
Việt Nam đang phát triển AI với chiến lược quốc gia đến 2030, nhấn mạnh tầm quan trọng của dữ liệu văn hóa và ngôn ngữ trong xây dựng mô hình đáng tin cậy.
Việt Nam cần chế biến đất hiếm trong nước để thu hút đầu tư công nghệ cao, tránh xuất khẩu thô và nâng cao giá trị tài nguyên.