Hiện thực hóa các động lực tăng trưởng mới

Vũ Khuê
Chia sẻ

Theo đánh giá của các chuyên gia, mô hình tăng trưởng hiện tại vẫn chưa tạo được chuyển biến căn bản. Năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao, vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro do sự phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhập khẩu...

Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chưa thoát khỏi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chưa thoát khỏi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng

Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có mức tăng trưởng kinh tế tốt. Trong nửa đầu năm 2024, nền kinh tế ghi nhận tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,42% so với cùng kỳ năm 2023, dự báo cả năm 2024 có thể chạm mốc gần 7%, sau khi có quý thứ tư liên tiếp tăng trưởng vượt tiềm năng.

TĂNG TRƯỞNG THEO CHIỀU RỘNG

Tại “Diễn đàn đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” mới đây, PGS.TS. Bùi Quang Tuấn, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, nhận định động lực tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có sự đóng góp của ngành nông – lâm – thủy sản, dịch vụ, công nghiệp và xây dựng. Đặc biệt có sự “góp sức” từ các động lực tăng trưởng mới như kinh tế số, đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP, tốc độ tăng năng suất lao động, kinh tế xanh…

Nhìn từ bức tranh này, PGS.TS. Bùi Quang Tuấn cho rằng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua vẫn theo mô hình cũ, chưa thoát khỏi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng. Đóng góp của vốn và vốn con người có xu hướng gia tăng. Đóng góp của TFP và lao động vào tăng trưởng GDP có xu hướng giảm theo thời gian. Do đó, đầu tư vẫn là nhân tố chủ yếu dẫn dắt tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng kinh tế được thúc đẩy bởi vốn con người hơn là tích lũy yếu tố đầu vào lao động.

Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng hiện đại nhưng 5 năm gần đây chậm lại. Theo PGS.TS. Bùi Quang Tuấn, chúng ta muốn thay đổi theo hướng dịch vụ tăng lên nhưng chưa được; nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn chiếm tỷ trọng đóng góp lớn; vai trò của tăng trưởng TFP còn yếu. Chênh lệch phát triển các vùng, liên kết vùng vẫn là vấn đề lớn.

Đặc biệt tăng trưởng dựa vào đổi mới sáng tạo, công nghệ, kỹ năng và sự tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu còn rất hạn chế. Hơn nữa, mô hình tăng trưởng vẫn dựa vào lao động giá rẻ, tồn tại nền kinh tế nhị nguyên (nước ngoài và trong nước), lan tỏa của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài còn hạn chế, nhất là năng lực công nghệ, xuất khẩu của khu vực FDI chiếm tới 71%.

Phân tích rõ hơn, PGS.TS. Bùi Quang Tuấn cho biết đầu tư vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của Việt Nam mới chỉ bằng 1/4 mức trung bình của thế giới (khoảng 0,56% GDP so với 2,2%). Hơn nữa, thể chế cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo còn bất cập, chưa đột phá, doanh nghiệp tư nhân đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) thấp (chỉ 0,44%), trong khi ở Hàn Quốc là trên 80%... Vì vậy, chúng ta chưa cải thiện nhiều về năng suất lao động.

Cụ thể: giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân 5,8%/năm, giai đoạn 2011 - 2015 tăng 4,3%, vẫn chậm… Năng suất lao động vẫn bị tụt hậu: tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 là 5,11%, cao hơn mức trung bình của ASEAN (3,11%), thấp hơn của Trung Quốc (7%) và Ấn Độ (6%). Hiện nay, năng suất lao động của Việt Nam được đánh giá là thấp nhất trong khu vực (chỉ đứng trên Lào). Khu vực kinh tế tư nhân chưa phát triển tương xứng với tiềm năng (44% GDP), doanh nghiệp Việt vẫn còn nhỏ bé, ít tập đoàn lớn... Mục tiêu công nghiệp hóa đến năm 2020 không đạt được.

Ngoài ra, mô hình tăng trưởng xanh chưa đóng góp nhiều cho phát triển bền vững. Kinh tế tuần hoàn còn mới manh nha, chưa phát triển. Kinh tế biển xanh còn đang ở dạng tiềm năng là chính… Thể chế tuy có được cải thiện nhưng còn nhiều điểm nghẽn, thiếu đột phá, thí điểm, nhất là cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo và cho các loại hình kinh tế mới (chia sẻ, fintech, dữ liệu...). Liên kết vùng kém, chưa phát huy tiềm năng, lợi thế vùng. Công nghệ, kỹ năng thấp làm hạn chế sự tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu và hạn chế sự lớn mạnh về quy mô và chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam.

TẠO SỰ ĐỘT PHÁ TỪ CÁC ĐỘNG LỰC MỚI

Trước bức tranh “xám màu” của các động lực trên, TS. Bùi Quang Tuấn cho rằng cơ hội cho đổi mới mô hình tăng trưởng chất lượng của Việt Nam còn rất nhiều, đó là: xu hướng công nghệ mới (cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư), xanh và số trở thành khách quan; xu hướng hội nhập vẫn tiếp tục; phong trào đổi mới sáng tạo; phong trào khởi nghiệp; cơ cấu dân số trẻ, tiếp cận công nghệ tốt; sản xuất, phân phối, tiêu dùng thông minh hơn… Chúng ta có lợi thế của nước đi sau để rút kinh nghiệm. Biến đổi khí hậu vừa là thách thức vừa là cơ hội để đổi mới và thích ứng.

“Để đổi mới mô hình tăng trưởng, cần dựa nhiều hơn vào các định hướng, động lực tăng trưởng mới, như: khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; chuyển đổi số; chuyển đổi xanh. Trước đây những vấn đề này chúng ta chỉ nói, nhưng trong giai đoạn tới cần làm thật thì mới có mô hình tăng trưởng chất lượng”, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, cần có chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ở cả trong và ngoài nước. Hiện thực hóa tầm nhìn là cường quốc xanh hóa và số hóa nền kinh tế bằng các thể chế cho phát triển… Tiếp cận hệ sinh thái xanh, hệ sinh thái số, đổi mới sáng tạo, tạo ra mối liên kết chủ thể trong hệ sinh thái đảm bảo các điều kiện của hệ sinh thái. Hoàn thiện thể chế, chính sách, có thí điểm, đặc thù, đột phá. Sáng tạo trong huy động nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực ngoài nhà nước.

Đầu tư cho kết cấu hạ tầng, trong đó có hạ tầng số, nền tảng số, ứng dụng số như AI, blockchain… để tạo ra những sản phẩm số thương hiệu của Việt Nam cũng là vấn đề cấp thiết. Đồng thời, cần có cơ chế khuyến khích đầu tư cho khoa học, công nghệ và R&D ở các doanh nghiệp, trang trại... Chia sẻ, kết nối cơ sở dữ liệu và tài nguyên số, ứng dụng trong quản trị, điều hành; liên kết vùng, liên kết chuỗi, cụm ngành. Ngoài ra, cần chú ý tới chiều cạnh xã hội và môi trường như quản lý tài nguyên và ô nhiễm, phát thải...

Đồng quan điểm, GS.TS. Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, nhấn mạnh rằng đổi mới mô hình tăng trưởng dù dựa vào tài nguyên, lao động giá rẻ hay tăng trưởng dựa vào những xu thế mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thì đều phải thực hiện việc thay đổi toàn bộ cái cũ, thay đổi toàn bộ “con đường” mà chúng ta đã đi. Trước đây, Việt Nam dựa vào tài nguyên, lao động giá rẻ thì nay phải dựa vào khoa học và công nghệ, chuyển sang sạch, xanh…

Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 33-2024 phát hành ngày 12/08/2024. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:

https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam

Hiện thực hóa các động lực tăng trưởng mới - Ảnh 1

Tin liên quan

Khởi nghiệp

Hồ sơ Startup

Citigo là công ty công nghệ cung cấp những giải pháp đơn giản với chi phí tiết kiệm, giúp khách hàng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Citigo hướng tới tầm nhìn trở thành công ty cung cấp giải pháp công nghệ cho doanh nghiệp phổ biến tại Đông Nam Á
ESBT là công ty hoạt động trọng lĩnh vực công nghệ thông tin, chúng tôi xây dựng những sản phẩm phần mềm cho cộng đồng và cung cấp dịch vụ phát triển phần mềm cho các doanh nghiệp
Lozi là một trong những ứng dụng thương mại điện tử được yêu thích nhất tại Việt Nam, kết nối hàng triệu người mua và người bán nhằm phục vụ nhu cầu mua bán trực tuyến ngày càng cao. Không chỉ là một cầu nối thương mại điện tử đáng tin cậy, Lozi còn cung cấp dịch vụ giao hàng nhanh chóng và tiện lợi chỉ trong 1 giờ, đem đến cho khách hàng những trải nghiệm mua sắm trực tuyến hiệu quả và tối ưu
Bắt nguồn từ mong muốn mang chất lượng dạy Tiếng Anh tại Trường Quốc tế đến với mọi học sinh Việt Nam, để các bạn nhỏ dù không có điều kiện kinh tế theo học tại các Trường Quốc Tế hay Trung Tâm đắt tiền vẫn có thể sử dụng Tiếng Anh tốt như người bản ngữ. Đây chính là hành trang chuẩn bị cho các em tương lai vươn ra thế giới. Chính vì lý do trên, đội ngũ sáng lập đã bắt tay vào xây dựng sản phẩm đầu tiên có tên “Chương trình học Tiếng Anh Online EDUPIA”.
Công ty TNHH SA-ACH định vị về lĩnh vững trồng rừng, phát triển gồm 3 loại cây và bốn tầng cây trên một hecta đất nhằm tạo hệ sinh thái bền vững, và nâng cao thu nhập cho bà con