Không còn tích lũy, lao động rút bảo hiểm xã hội một lần là khó tránh
Sau 2 năm chống chọi với đại dịch, người lao động đã không còn tích lũy thì việc chịu thêm cú sốc về việc làm và thu nhập sẽ “đánh gục” không ít người lao động. Hình ảnh người lao động xếp hàng rút bảo hiểm xã hội 1 lần trong suốt năm 2022 và đang “bùng” trở lại những tháng cuối năm ở khu vực phía Nam là hệ lụy khó tránh khỏi khi quá khó khăn…
Ông Ngọ Duy Hiểu, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nhấn mạnh nội dung này tại Hội thảo chuyên đề 4: “Phát triển thị trường lao động bền vững, bảo đảm an sinh xã hội trong phát triển kinh tế - xã hội” trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2023, sáng 17/12.
LAO ĐỘNG BỊ ẢNH HƯỞNG VIỆC LÀM PHẦN LỚN THUỘC DOANH NGHIỆP FDI
Tham luận về tình hình doanh nghiệp bị cắt giảm đơn hàng, chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động năm 2022, ông Ngọ Duy Hiểu thông tin, từ tháng 9 đến nay, đã xảy ra tình trạng nhiều doanh nghiệp ở các ngành nghề, địa phương, đặc biệt là ngành dệt may, da giày, chế biến gỗ, điện tử gặp khó khăn, bị thiếu, cắt giảm đơn hàng, dẫn đến hàng trăm ngàn người lao động bị giảm giờ làm, mất việc làm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc làm, thu nhập, đời sống của một bộ phận người lao động và gia đình họ.
“Khác với tất cả các năm trước, đây là thời điểm các doanh nghiệp và người lao động triển khai kế hoạch tăng ca, đảm bảo đơn hàng cho các đối tác, năm nay, hàng vạn người lao động về quê đón Tết trước hàng tháng, thậm chí là vài tháng, là vấn đề lớn, rất đáng quan tâm”, ông Ngọ Duy Hiểu trăn trở.
Ben cạnh đó, số lượng người nhận bảo hiểm thất nghiệp 10 tháng năm 2022 cũng tăng khá mạnh so với cùng kỳ năm 2021. Thống kê tại 4 tỉnh, thành phố phía Nam cho thấy TP. HCM tăng 25,88%, Bình Dương tăng 39,08%, Đồng Nai tăng 54,69% và Tiền Giang tăng 66,5%.
Theo tổng hợp của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tại các doanh nghiệp đã thành lập công đoàn cơ sở, từ tháng 9/2022 cho đến hết ngày 10/12/2022 đã có 1.242 doanh nghiệp (tại 44 tỉnh, thành phố) gặp khó khăn, bị cắt giảm đơn hàng nên phải giảm giờ làm của 482.120 người lao động.
Trong đó giảm giờ làm hoặc đang ngừng việc có hưởng lương là 433.908 người, chiếm 90% tổng số người bị ảnh hưởng; tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương là 6.570 người, chiếm 1,36%, chấm dứt hợp đồng lao động với 41.642 người, chiếm 8,64% tổng số người bị ảnh hưởng.
Số lao động bị ảnh hưởng trên phần lớn ở các doanh nghiệp FDI (chiếm 75% tổng số lao động bị ảnh hưởng), tập trung trong 3 ngành dệt may, da giày, chế biến gỗ (chiếm 77% tổng số lao động bị ảnh hưởng); chủ yếu ở các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam như: TP. HCM (52.290 người), Long An (16.180 người), Tây Ninh (26.086 người), Đồng Nai (111.163 người), Bình Dương (87.555 người), An Giang (10.995 người)... Tổng chung khu vực phía Nam có 341.544 người lao động bị ảnh hưởng, chiếm 70% tổng số người lao động bị ảnh hưởng của toàn quốc.
Theo ông Hiểu, điều đáng quan tâm là có đến 36% người lao động đang làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế và có khoảng 8% trong số đó là lao động nữ từ 35 tuổi trở lên và khoảng 5% là lao động nữ đang trong thời kỳ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.
NHIỀU HỆ LỤY CHO CẢ DOANH NGHIỆP VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG
Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đánh giá, tình trạng doanh nghiệp bị cắt giảm đơn hàng, người lao động bị mất việc làm hoặc giảm việc làm để lại hệ lụy rất lớn, nhất là thời điểm Tết Nguyên đán đến gần. Đối với nền kinh tế, đó là sự giảm sút về năng suất lao động, giảm sút về tổng sản phẩm, về giá trị kinh tế và kéo theo là ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của cả năm 2022, thậm chí sang những tháng tiếp theo của năm 2023, tác động tới cân đối lớn của cả nền kinh tế”, ông Ngọ Duy Hiểu phân tích.
Đối với thị trường lao động, việc người lao động mất việc hiện nay sẽ tác động lớn đến tính bền vững của thị trường; thúc đẩy dòng chuyển dịch lao động từ khu vực chính thức sang khu vực phi chính thức diễn ra mạnh hơn và khó kiểm soát hơn; giảm không nhỏ lực lượng lao động có tay nghề, kinh nghiệm, đã qua đào tạo khỏi thị trường vốn đã thiếu hụt lao động chất lượng cao; giảm nguồn cung của thị trường trong ngắn hạn. “Những điều này khó có thể bù đắp được trong ngắn hạn”, ông Hiểu nhấn mạnh.
Đối với doanh nghiệp, việc cắt giảm đơn hàng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của doanh nghiệp. Việc mất lao động hiện tại có thể chưa mang lại tác động tức thời do doanh nghiệp không có việc làm để giữ người lao động. Nhưng những tháng tới, khi tình hình được cải thiện, tốt dần lên, doanh nghiệp cần lao động có tay nghề chắc chắn sẽ khó tuyển dụng và tốn kém rất nhiều chi phí để có lại được lực lượng lao động như trước.
Đối với người lao động, giảm giờ làm là giảm tiền lương, thu nhập; mất việc làm là mất tiền lương, mất thu nhập. “Trong bối cảnh sau 2 năm chống chọi với đại dịch, người lao động đã không còn tích lũy thì việc chịu thêm cú sốc về việc làm và thu nhập sẽ “đánh gục” không ít người lao động, đặc biệt là lao động yếu thế. Trong bối cảnh bình thường, nhiều người lao động đã phải sống tằn tiện, gửi con về quê, đời sống vật chất thiếu thốn, đời sống tinh thần gần như bỏ trống, không có hoặc có rất ít tích lũy, rất dễ bị tổn thương trước biến cố hoặc khủng hoảng.
Hình ảnh hàng đoàn người lao động xếp hàng rút bảo hiểm xã hội 1 lần trong suốt năm 2022 và đang “bùng” trở lại những tháng cuối năm này ở khu vực phía Nam là hệ lụy khó tránh khỏi khi người lao động quá khó khăn, không còn nơi bấu víu”, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trăn trở.
CẦN NHIỀU GIẢI PHÁP ĐỒNG BỘ
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam dự báo, tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp còn gặp khó khăn, đơn hàng sẽ tiếp tục bị cắt giảm có thể hết quý 1, thậm chí quý 2/2023 dẫn đến nhiều người lao động bị thiếu, mất việc làm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thu nhập, đời sống. Theo tổng hợp từ các công đoàn cơ sở, dự kiến trong tháng 12 và những tháng đầu năm 2023, sẽ có 667 doanh nghiệp tiếp tục thực hiện giảm giờ làm của 271.736 lao động và 88 doanh nghiệp có kế hoạch cắt giảm 15.769 lao động.
Trong bối cảnh đó, ông Ngọ Duy Hiểu cho rằng, cần nhiều giải pháp đồng bộ, vừa hỗ trợ trong ngắn hạn giúp người lao động vượt khó, ở lại thị trường hoặc sớm trở lại thị trường, vừa hỗ trợ trong dài hạn nhằm tăng cường khả năng thích nghi, khả năng chống chịu cho người lao động trước khủng hoảng, biến động của thị trường.
Trước hết, cần tăng cường cung cấp thông tin về thị trường lao động, triển khai các hình thức, phương thức giúp người lao động dễ tiếp cận thông tin tuyển dụng, với các nguồn tuyển dụng uy tín, các doanh nghiệp, tổ chức đang cần tuyển việc làm. Đồng thời, phát huy vai trò của các hiệp hội người sử dụng lao động trong việc kết nối để giới thiệu việc làm cho lao động từ các doanh nghiệp không bố trí được việc làm tới các doanh nghiệp là thành viên của các hiệp hội cần tuyển dụng lao động.
Với số lao động đang tạm hoãn hợp đồng hiện nay rất lớn, các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản để các doanh nghiệp đang có việc làm có thể sử dụng và sử dụng nguồn lao động đang tạm hoãn hợp đồng lao động ở các doanh nghiệp khác.
Giải pháp quan trọng nữa cũng được để cập là tăng cường kiểm soát về giá cả, không để lạm phát tăng cao; đồng thời tổ chức các điểm bán hàng bình ổn giá cho công nhân lao động. Song song với đó, cơ quan chức năng cần kiểm tra việc chấp hành pháp luật về cung cấp hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp để đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
Lãnh đạo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng đề xuất cần tiếp tục thực hiện các chính sách đã ban hành hỗ trợ người lao động, chính thức hơn các chính sách tạm thời, bảo đảm việc làm, thu nhập và an sinh lâu dài cho người lao động.
Đặc biệt, nghiên cứu, ban hành chính sách mố hỗ trợ kịp thời, thỏa đáng, sát thực tế đối với người lao động ở 3 mức độ: bị mất việc, tạm hoãn hợp đồng, giảm giờ làm, nhất là khi Tết Nguyên đán cận kề. Mặt khác, cần tiếp tục có gói hỗ trợ lãi suất tiền vay cho các doanh nghiệp bị thiếu đơn hàng để doanh nghiệp trả lương cơ bản giữ chân người lao động, đào tạo, đào tạo lại người lao động, tái cơ cấu doanh nghiệp, chuyển đổi vị trí việc làm trong doanh nghiệp…
“Về lâu dài, cần có chính sách thu hút đầu tư và tiền lương thỏa đáng để người lao động sau một thời gian làm việc phải có tích lũy ở mức cần thiết để khi gặp khó khăn, họ vẫn có tiền để duy trì cuộc sống”, ông Ngọ Duy Hiểu nói và cho rằng, bên cạnh đó, phải mở rộng chính sách về bảo hiểm xã hội nhằm đủ sức để hỗ trợ người lao động trong lúc khó khăn…