Nông nghiệp thông minh: Công nghệ AI đang giúp đất “biết nói” và người nông dân có thể “nghe”
Bảo Bình
30/10/2025
Làm nông nghiệp theo kinh nghiệm, suy đoán và cảm nhận của con người về sự no hay đói của cây trồng, về độ ẩm hay khô của đất, cảm nhận đó khó có thể chính xác. Nhưng với công nghệ, đặc biệt AI, đất đã có thể “biết nói”…
Trong bối cảnh toàn cầu đang đối mặt với những thách thức chưa từng có như biến đổi khí hậu và cạn kiệt tài nguyên, nông nghiệp Việt Nam – trụ cột của nền kinh tế – vẫn đóng vai trò bảo đảm sinh kế cho hơn 60% dân số nông thôn. Ngành này chiếm khoảng 30% lực lượng lao động và đóng góp gần 12% GDP.
Tuy nhiên, Việt Nam lại là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, với hơn 70% dân số thường xuyên gánh chịu thiên tai như lũ lụt, bão, hạn hán và xâm nhập mặn.
Các mô hình dự báo cho thấy, nếu không có giải pháp thích ứng kịp thời, năng suất của các cây trồng chủ lực như lúa và ngô sẽ giảm mạnh trong những thập kỷ tới. Thách thức không chỉ đến từ thiên nhiên mà còn bắt nguồn từ chính phương thức sản xuất cũ kỹ – dựa nhiều vào kinh nghiệm, thiếu liên kết trong chuỗi giá trị và chưa được quản lý bằng dữ liệu. Đáng lo ngại hơn, tình trạng suy thoái đất nông nghiệp đang diễn ra nghiêm trọng, đe dọa trực tiếp đến năng suất và tính bền vững của ngành.
THIẾU DỮ LIỆU LÀ MỘT TỔN THẤT NẶNG NỀ CHO NÔNG NGHIỆP
Chia sẻ với The WISE Talk số 17 với chủ đề “Nông nghiệp thông minh: Từ dữ liệu đến quyết định - Cách công nghệ thay đổi canh tác truyền thống” do VnEconomy và Trung tâm Kết nối Công nghệ Tương lai (Tech Connect) tổ chức sản xuất, bà Vương Phan Liên Trang, một chuyên gia cao cấp về quy hoạch và chính sách môi trường, đồng sáng lập Enfarm, cho biết nông nghiệp thông minh và nông nghiệp chính xác không còn là câu chuyện của tương lai, mà đã trở thành hiện thực ở nhiều nơi trên thế giới.
"Đây là mô hình sản xuất ứng dụng các công nghệ tiên tiến như IoT, trí tuệ nhân tạo (AI) và định vị GPS nhằm tối ưu hóa quy trình canh tác — giúp giảm chi phí, tăng năng suất và hướng tới sự phát triển bền vững về môi trường", bà Trang nói
Tuy nhiên, theo chuyên gia, thiếu dữ liệu, đặc biệt là dữ liệu có khả năng nhập tự động, có tính minh bạch và có thể xác thực, chính là một “điểm nghẽn” của nông nghiệp thông minh. “Chúng ta đã áp dụng một số công nghệ nhưng vẫn chưa đảm bảo được việc nhập liệu một cách tự động và đặc biệt là có thể kiểm chứng. Trong khi đó, yêu cầu nhập khẩu của các thị trường như EU ngày càng nghiêm ngặt, đòi hỏi truy xuất nguồn gốc và sản phẩm xanh, sạch”.
“Thiếu dữ liệu là một tổn thất rất nặng nề”, bà Trang nhấn mạnh. “Nếu làm nông nghiệp theo kinh nghiệm, dựa trên suy đoán và cảm nhận của con người về sự no hay đói của cây trồng, về độ ẩm hay khô của đất, thì cảm nhận đó khó có thể chính xác”, chuyên gia cho biết. “Thiếu dữ liệu nghĩa là tốn kém rất nhiều tiền của cho phân bón, cho nước, cho điện”.
Sự thất thoát là bài toán đau đầu của ngành nông nghiệp ở cả Việt Nam và trên thế giới. Chuyên gia cho biết theo số liệu thống kê, khoảng hơn 1/3 chi phí cho canh tác nông nghiệp là dành cho phân bón. Nhưng lại có khoảng 60% lượng phân bón đó không được cây trồng hấp thụ.
“Con số thất thoát này đều rất lớn ở các nước, nhưng đặc biệt lớn hơn tại Việt Nam, khi tỷ lệ bón phân ở nhiều nơi cao gấp đến 2,5 lần mức trung bình của thế giới”, bà Trang cho biết. “Một phần là do người nông dân của Việt Nam rất tích cực, chịu khó, cố gắng đảm bảo mục tiêu về sản xuất, nhưng nhiều khi cách bón phân lại chưa đúng – có khi thừa nhưng cũng có khi thiếu – vì vậy đã dẫn đến tất cả những lãng phí đó”.
Theo chuyên gia, sự lãng phí này không chỉ về kinh tế với số tiền khổng lồ, mà còn gây ra thoái hóa đất. Tình trạng thoái hóa đất ở Việt Nam cũng như trên thế giới đang ở mức báo động, lên đến hơn 1/3 diện tích. Hơn nữa, phân bón còn thải ra 2,6 tấn khí nhà kính, một con số thậm chí còn lớn hơn cả lượng khí thải từ ngành hàng không và vận tải cộng lại.
DỮ LIỆU GIÚP NGƯỜI NÔNG DÂN RA QUYẾT ĐỊNH CHÍNH XÁC
“Dữ liệu sẽ giúp chúng ta chuyển từ dựa trên kinh nghiệm và suy đoán sang dựa trên những đo lường thực tế theo thời gian thực để bón phân, tưới nước, rồi đưa ra những giải pháp chăm sóc trang trại của mình một cách chính xác - đủ lượng, đúng lúc và đúng chỗ”, bà Vương Phan Liên Trang nói.
Cụ thể, bà Trang cho biết với sản phẩm của Enfarm, cảm biến được cắm cố định trong đất, có thể đo được bảy chỉ số quan trọng như hàm lượng dinh dưỡng đa lượng N–P–K, độ ẩm, độ pH, độ dẫn điện và nhiệt độ.
“Những dữ liệu được cập nhật theo thời gian thực, cùng với các khuyến nghị dễ sử dụng do công nghệ AI tạo ra, giúp người nông dân ra quyết định chính xác: nên bón bao nhiêu phân, theo công thức nào, ở vị trí và thời điểm nào. Điều này đặc biệt hiệu quả khi được kết hợp với dự báo thời tiết – chẳng hạn, nếu sắp có mưa, hệ thống có thể tự động điều chỉnh lượng nước tưới để tối ưu hiệu quả”, bà nói.
Chuyên gia cho biết làm theo kinh nghiệm và suy đoán với việc sử dụng dữ liệu, sử dụng công nghệ IoT và AI tạo ra “sự khác biệt rõ rệt”. Đó là giúp giảm chi phí, tăng năng suất, giảm phát thải, bảo vệ đất và tránh ô nhiễm môi trường. Kiểm chứng thực tế cho thấy chi phí sẽ giảm khoảng từ 35 - 50%, và năng suất tăng khoảng đến 20%.
CÔNG NGHỆ GIÚP ĐẤT “NÓI” VÀ NGƯỜI NÔNG DÂN CÓ THỂ “NGHE”
Tuy vậy, theo bà Vương Phan Liên Trang, ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp “rất khác” với các ngành khác như fintech (công nghệ tài chính), edtech (công nghệ giáo dục) hay biotech (công nghệ sinh học).
“Trong rất nhiều lĩnh vực, hiệu quả ứng dụng công nghệ có thể thấy ngay tức thì, khiến người sử dụng cảm thấy rất phấn khích, rất vui. Nhưng bản chất của nông nghiệp là theo mùa vụ, nên để thấy hiệu quả của mùa vụ đó – đúng là đã giảm được chi phí phân, nước, điện và tăng được năng suất – thì cần phải theo dõi hết một mùa vụ. Đây cũng là một trong những cản trở làm cho công nghệ nông nghiệp mất nhiều thời gian hơn để chứng minh, trở nên “không hấp dẫn”. Tùy từng loại cây, có thể nhiều tháng đến cả một năm mới thấy được hiệu quả”.
Ngoài ra, trong quá trình thiết kế sản phẩm, công nghệ bên trong thiết bị có thể tích hợp các mô hình máy học (machine learning), trí tuệ nhân tạo (AI) và các thuật toán phức tạp để đảm bảo độ chính xác của dữ liệu.
Tuy nhiên, phần giao diện mà người dùng trực tiếp tương tác cần được thiết kế đơn giản, trực quan và dễ sử dụng, giúp người nông dân dễ dàng tiếp cận và vận hành mà không gặp trở ngại về công nghệ.
Bởi vì, công nghệ cho nông nghiệp, cho người nông dân, sẽ có phần khó khăn vì có những người không am hiểu công nghệ như ở các lĩnh vực hay môi trường khác. Việc sử dụng chatbot AI, sử dụng giọng nói sẽ làm cho việc ứng dụng công nghệ cho đối tượng nông dân tiếp tục được phổ biến và thuận lợi hơn nữa. “Với công nghệ, người nông dân có chatbot để hỏi đáp, trò chuyện, làm rõ những khúc mắc của mình và đưa ra quyết định chính xác hơn, phù hợp hơn với từng mảnh vườn, từng nhu cầu người sử dụng”, bà Trang nói.
Theo chuyên gia, tỷ lệ người nông dân Việt Nam sử công nghệ đang gia tăng nhanh chóng và rộng khắp. “Hiện nay, đa số nông dân đều đã sử dụng điện thoại thông minh và các ứng dụng di động trong đời sống hằng ngày, từ thông tin thị trường đến công cụ hỗ trợ sản xuất”, bà chia sẻ.
“Chính người nông dân đã chia sẻ với tôi là họ không hiểu được đất đang thực sự như thế nào. Xưa các cụ có câu "hòn đất mà biết nói năng", bây giờ công nghệ đang giúp đất “nói” và người nông dân có thể “nghe”.
LÀM NÔNG NGHIỆP THÔNG MINH THUẬN LỢI HƠN NHỜ CHÍNH SÁCH CÔNG NGHỆ VÀ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO
Thực tế, nông dân Việt Nam vốn không xa lạ với công nghệ, đặc biệt là với các thiết bị di động. “Chính vì vậy, khi giới thiệu một ứng dụng mới hỗ trợ canh tác, việc tiếp cận nông dân không hề khó khăn. Quan trọng là công nghệ đó phải thiết thực và gắn bó với công việc hằng ngày của họ”, bà cho biết.
Các ứng dụng nông nghiệp hiện nay thường tập trung vào những nhu cầu rất cụ thể và gần gũi, như xem dự báo thời tiết, theo dõi biến động giá nông sản, hay cập nhật tình trạng đất và cây trồng trên nông trại. “Những công cụ này không phải là thứ gì đó vĩ mô hay xa vời, mà là trợ thủ đắc lực trong công việc thường nhật của người nông dân, giúp họ chủ động hơn trong sản xuất và ra quyết định”, bà nhấn mạnh.
Theo bà Trang, môi trường chính sách cho công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam đang trở nên thuận lợi hơn bao giờ hết cho nông nghiệp thông minh. Hàng loạt chính sách, nghị quyết mới đã được ban hành, tạo nền tảng cho hệ sinh thái đổi mới phát triển.
Đặc biệt, chuyên gia cho rằng hợp tác giữa khu vực công và tư nhân là chìa khóa để đẩy nhanh quá trình đổi mới sáng tạo. “Nhu cầu cắt giảm chi phí, tăng năng suất, giảm phát thải và bảo vệ môi trường đang hiện hữu ở mọi ngành, mọi lĩnh vực”, bà nói.
“Vấn đề là làm sao để triển khai nhanh hơn, vừa phù hợp với nhu cầu thực tế của người dùng, vừa đáp ứng các mục tiêu phát triển của Nhà nước. Và điều đó chỉ có thể đạt được khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, doanh nghiệp và các đối tác trong hệ sinh thái đổi mới”, chuyên gia cho biết.
AI đang định hình lại cách ngân hàng và bảo hiểm chăm sóc khách hàng. Điều gì đang thúc đẩy cuộc cách mạng này trong ngành BFSI?
Khám phá thách thức và giải pháp chuyển đổi số trong nông nghiệp Việt Nam, từ nỗi sợ vô hình đến cơ hội phát triển bền vững.
Việt Nam cần 200.000 nhân sự trong lĩnh vực blockchain, fintech và AI đến 2025.
Khám phá sức mạnh của marketing lượng tử trong bối cảnh khủng hoảng niềm tin tại Việt Nam. Đọc ngay để hiểu rõ hơn!
Việt Nam cần chuẩn bị nguồn nhân lực cho công nghệ lượng tử trong 5-10 năm tới để không tụt hậu.
Chủ tịch ViSecurity Ngô Tuấn Anh nhấn mạnh tầm quan trọng của sản phẩm an ninh mạng nội địa tại Việt Nam.