Nước Mỹ và hai mối lo trái dấu
Nghe thì có vẻ vô lý, nhưng có lẽ nước Mỹ đang cùng lúc đối mặt với cả nguy cơ giảm phát và lạm phát
Thời gian này, trên thế giới, nhất là tại Mỹ, đang diễn ra một cuộc tranh cãi khá gay gắt về việc liệu nguy cơ giảm phát hay lạm phát nên được xem là vấn đề đáng quan ngại hàng đầu hiện nay.
Trong bài báo tựa đề “Deflation or Inflation?” (“Giảm phát hay lạm phát?”) mới đây đăng trên tờ Newsweek của Mỹ, tác giả Robert J. Samuelson cho rằng, nghe thì có vẻ vô lý, nhưng có lẽ nước Mỹ đang cùng lúc đối mặt với cả nguy cơ trên.
Bài học về kỳ vọng lạm phát
Để thấy được ý nghĩa của cuộc tranh cãi hiện nay về việc nước Mỹ đang đối mặt với nguy cơ lạm phát hay giảm phát, có lẽ cần phải nhắc lại những gì đã xảy ra sau Chiến tranh thế giới 2.
Dưới những áp lức chính trị căng thẳng, Tổng thống Truman của nước Mỹ khi đó đã phải nới lỏng những quy định kiểm soát tiền lương và giá cả. Do bị kìm nén trong suốt thời gian chiến tranh, sau khi những hạn chế được giãn ra, tiền lương và giá cả ở Mỹ đã tăng bùng nổ. Công nhân trong các ngành sản xuất thép, ôtô, và nhiều lĩnh vực khác đua nhau đình công đòi tăng lương. Trong các năm 1946 và 1947, giá tiêu dùng ở Mỹ đã tăng lần lượt 8,5% và 14,4%.
Điều đáng lưu ý ở đây là sau thời kỳ tăng như vũ bão này, giá cả ở Mỹ đã bình ổn. Trong các thập niên 1960 và 1970, không có vòng xoáy đi lên của tiền lương - giá cả nào xảy ra.
Đó một phần là nhờ một thời kỳ suy thoái nhẹ trong các năm 1948 và 1949 đã giúp làm hạ cơn sốt giá. Tuy nhiên, quan trọng hơn, lạm phát chững lại ở thời điểm đó còn là do người tiêu dùng Mỹ không kỳ vọng giá cả tăng tiếp. Người Mỹ khi đó đã sống qua Đại suy thoái, thời kỳ mà giá các mặt hàng giảm sút. Trước đây, trừ những thời kỳ xảy ra chiến tranh, giá cả ở Mỹ thường khá ổn định.
Bài học rút ra từ câu chuyện trên đây là: Tâm lý đóng một vai trò rất quan trọng trong sự lên xuống của giá cả. Thứ mà các nhà kinh tế học vẫn gọi là “kỳ vọng” đóng vai trò dẫn dắt hành vi của người lao động, các nhà quản lý và các nhà đầu tư. Nếu những người này sợ lạm phát, họ sẽ hành động theo những cách thức khiến lạm phát xảy ra, và ngược lại - như những gì xảy ra ở những năm 1940 tại Mỹ đã chứng minh.
Trở lại câu chuyện của ngày hôm nay, thời gian qua, không ít người đặt câu hỏi liệu chính sách tiền tệ lỏng lẻo của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có tạo cơ hội cho sự trở lại của lạm phát cao? Một câu hỏi nữa là liệu chính sách này có ngăn chặn được giảm phát - một rủi ro có thể khiến kinh tế Mỹ sụt giảm sâu hơn?
Những câu hỏi này xuất phát từ những nỗ lực không ngừng của FED nhằm hỗ trợ nền kinh tế. Lãi suất cơ bản của đồng USD đã được FED đưa về mức gần 0%; FED mua vầo các loại thương phiếu do doanh nghiệp Mỹ phát hành trong lúc các nhà đầu tư của khối tư nhân tháo chạy khỏi thị trường này; để đẩy lãi suất cho vay dài hạn xuống, FED cam kết mua 1,25 nghìn tỷ trái phiếu địa ốc do hai tập đoàn Fannie Mae và Freddie Mac phát hành, cộng thêm 300 tỷ USD trái phiếu kho bạc Mỹ…
Trong lịch sử nước Mỹ, đây là những nỗ lực chưa từng có tiền lệ.
Hai nỗi lo trái dấu
Bởi thế, những nỗi lo lạm phát là điều khó tránh khỏi. Một khi kinh tế Mỹ phục hồi, lượng tiền khổng lồ đã được bơm vào nền kinh tế trong thời gian suy thoái sẽ châm ngòi cho lạm phát. Những khoản vay lãi suất thấp sẽ đẩy giá cả lên, tiền lương vì thế cũng có thể leo thang theo. Lãi suất thấp sẽ khuyến khích hoạt động chi tiêu, khiến người tiêu dùng không còn lo chuyện tiết kiệm…
Nhà kinh tế học Allan Meltzer thuộc Đại học Carnegie Mellon, Mỹ, cảnh báo, FED sẽ “chịp áp lực từ phía Quốc hội, chính quyền và giới doanh nghiệp” đòi ngăn cản sự đi lên của lãi suất. Với thâm hụt ngân sách khổng lồ, Nhà Trắng và Quốc hội Mỹ sẽ muốn giữ lãi suất ở mức thấp. Tâm lý lo sợ lạm phát qua đó sẽ hình thành.
Tuy nhiên, những người giữ quan điểm ngại giảm phát có thể bác lại ngay những lập luận trên. Về lý thuyết, lạm phát là kết quả của tình trạng thừa cầu, thiếu cung. Hiện nay, thị trường đang tồn tại tình trạng thừa cung, thiếu cầu. Tỷ lệ thất nghiệp cao và các hoạt động sản xuất kinh doanh trì trệ (các nhà máy ngưng hoạt động, văn phòng cho thuê trống không, những mỏ khoảng sản đóng cửa) là một “má phanh” đối với sự tăng lên của tiền lương và giá cả. Nếu FED không duy trì dòng tín dụng giá rẻ, nhu cầu co hẹp có thể sẽ khiến giá cả và lương bổng rơi vào một vòng xoáy đi xuống.
“Giảm phát, thay vì lạm phát, là mối nguy hiểm rõ ràng ở ngay thời điểm hiện tại”, nhà kinh tế học đạt giải Nobel Paul Krugman khẳng định.
Cả hai đều đúng?
Việc cho rằng cả hai nhận định trên đều đúng có vẻ như là điều không thể, nhưng có lẽ là như thế.
Krugman đã lưu ý, những áp lực lạm phát ở thời điểm này là gần như không tồn tại. Trong vòng một năm trở lại đây, chỉ số giá tiêu dùng ở Mỹ nhìn chung ổn định. Tháng 5 vừa qua, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ tăng lên mức 9,4%.
Một cuộc điều tra do hãng nghiên cứu Challenger, Gray & Christmas tiến hành cho thấy, 52% số doanh nghiệp được điều tra tại Mỹ đã không tăng hoặc cắt giảm tiền lương. Một cuộc điều tra khác do các nhà kinh tế học Joseph Lupton và David Hensley của ngân hàng JPMorgan Chase tiến hành cho thấy, tình trạng dư thừa nguồn cung đang xảy ra trên phạm vi toàn cầu. Những kỳ vọng lạm phát cũng đang ở mức thấp.
Thực tế này cho phép FED hành động để cứu tăng trưởng. Do kỳ vọng đóng vai trò lớn, nên với kỳ vọng lạm phát ở mức hiện nay, lạm phát sẽ không ngay lập tức xảy ra. Ngay bản thân chuyên gia Meltzer, người có quan điểm lạm phát cao sẽ trở lại cũng cho rằng, lạm phát sẽ không tăng mạnh lên ngay lập tức. “Khi nào lạm phát sẽ trở lại? Chắc chắn không phải là ngay bây giờ”, ông viết.
Tuy nhiên, những cảnh báo của Meltzer không phải là không còn giá trị. Lịch sử cho thấy, FED vẫn thường đi quá xa trong chính sách nới lỏng tiền tệ và thúc đẩy những kỳ vọng lạm phát. Trong các thập niên 1960 và 1970, điều này đã xảy ra thông qua tình trạng cầu vượt cung và vòng xoáy tăng lương-giá cổ điển. Ở thời điểm hiện nay, rủi ro lạm phát có thể nổi lên thông qua tỷ giá hối đoái và giá hàng hóa.
Những mối lo lạm phát có thể khiến giá của các mặt hàng cơ bản (dầu thô và kim loại) và đẩy tỷ giá đồng USD xuống. Hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên đắt đỏ hơn, cho phép các nhà sản xuất trong nước tăng giá hàng bán. Một khi những hoạt động mang tính lạm phát đã hiện hình, tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp cao sẽ đồng thời tồn tại, dẫn tới tình trạng đình lạm đáng sợ. Vào năm 1977, cả tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp tại Mỹ cùng ở mức 7%.
Vai trò của Chủ tịch FED
Có những dấu hiệu cho thấy rủi ro giảm phát tại Mỹ đã giảm bớt, như thị trường nhà đất ấm lên, doanh số thị trường xe hơi được cải thiện, và tăng trưởng có phần khởi sắc ở các thị trường đang nổi lên. Đến một lúc nào đó, FED sẽ phải thực hiện việc tăng lãi suất trở lại.
Chủ tịch FED Ben Bernanke đã cam kết sẽ chặn trước sự trở lại của lạm phát cao. Nhưng liệu FED có xác định được thời điểm hợp lý để nâng lãi suất và chống lại những áp lực chính trị? Liệu những lời hứa của ông có đủ để trấn an thị trường?
Một lý do để thị trường không nên quá tin vào lời hứa này của ông Bernanke vì nhiệm kỳ Chủ tịch FED của ông sẽ kết thúc vào tháng 1 năm sau. Dù ai là nhân vật được Tổng thống Barack Obama bổ nhiệm thay thế ông Bernanke thì người đó ít nhiều cũng sẽ bị nhìn nhận là bám sát hơn chính sách kinh tế của Chính phủ Mỹ hiện nay.
Nếu muốn loại bỏ suy nghĩ này khỏi dư luận, ông Obama nên tái bổ nhiệm ông Bernanke vào ghế Chủ tịch FED. Nếu vậy, cuộc tranh cãi về giảm phát và lạm phát vẫn sẽ còn đó, nhưng nước Mỹ sẽ tránh được sự leo thang xa hơn của những kỳ vọng lạm phát.
(Theo Newsweek)
Trong bài báo tựa đề “Deflation or Inflation?” (“Giảm phát hay lạm phát?”) mới đây đăng trên tờ Newsweek của Mỹ, tác giả Robert J. Samuelson cho rằng, nghe thì có vẻ vô lý, nhưng có lẽ nước Mỹ đang cùng lúc đối mặt với cả nguy cơ trên.
Bài học về kỳ vọng lạm phát
Để thấy được ý nghĩa của cuộc tranh cãi hiện nay về việc nước Mỹ đang đối mặt với nguy cơ lạm phát hay giảm phát, có lẽ cần phải nhắc lại những gì đã xảy ra sau Chiến tranh thế giới 2.
Dưới những áp lức chính trị căng thẳng, Tổng thống Truman của nước Mỹ khi đó đã phải nới lỏng những quy định kiểm soát tiền lương và giá cả. Do bị kìm nén trong suốt thời gian chiến tranh, sau khi những hạn chế được giãn ra, tiền lương và giá cả ở Mỹ đã tăng bùng nổ. Công nhân trong các ngành sản xuất thép, ôtô, và nhiều lĩnh vực khác đua nhau đình công đòi tăng lương. Trong các năm 1946 và 1947, giá tiêu dùng ở Mỹ đã tăng lần lượt 8,5% và 14,4%.
Điều đáng lưu ý ở đây là sau thời kỳ tăng như vũ bão này, giá cả ở Mỹ đã bình ổn. Trong các thập niên 1960 và 1970, không có vòng xoáy đi lên của tiền lương - giá cả nào xảy ra.
Đó một phần là nhờ một thời kỳ suy thoái nhẹ trong các năm 1948 và 1949 đã giúp làm hạ cơn sốt giá. Tuy nhiên, quan trọng hơn, lạm phát chững lại ở thời điểm đó còn là do người tiêu dùng Mỹ không kỳ vọng giá cả tăng tiếp. Người Mỹ khi đó đã sống qua Đại suy thoái, thời kỳ mà giá các mặt hàng giảm sút. Trước đây, trừ những thời kỳ xảy ra chiến tranh, giá cả ở Mỹ thường khá ổn định.
Bài học rút ra từ câu chuyện trên đây là: Tâm lý đóng một vai trò rất quan trọng trong sự lên xuống của giá cả. Thứ mà các nhà kinh tế học vẫn gọi là “kỳ vọng” đóng vai trò dẫn dắt hành vi của người lao động, các nhà quản lý và các nhà đầu tư. Nếu những người này sợ lạm phát, họ sẽ hành động theo những cách thức khiến lạm phát xảy ra, và ngược lại - như những gì xảy ra ở những năm 1940 tại Mỹ đã chứng minh.
Trở lại câu chuyện của ngày hôm nay, thời gian qua, không ít người đặt câu hỏi liệu chính sách tiền tệ lỏng lẻo của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có tạo cơ hội cho sự trở lại của lạm phát cao? Một câu hỏi nữa là liệu chính sách này có ngăn chặn được giảm phát - một rủi ro có thể khiến kinh tế Mỹ sụt giảm sâu hơn?
Những câu hỏi này xuất phát từ những nỗ lực không ngừng của FED nhằm hỗ trợ nền kinh tế. Lãi suất cơ bản của đồng USD đã được FED đưa về mức gần 0%; FED mua vầo các loại thương phiếu do doanh nghiệp Mỹ phát hành trong lúc các nhà đầu tư của khối tư nhân tháo chạy khỏi thị trường này; để đẩy lãi suất cho vay dài hạn xuống, FED cam kết mua 1,25 nghìn tỷ trái phiếu địa ốc do hai tập đoàn Fannie Mae và Freddie Mac phát hành, cộng thêm 300 tỷ USD trái phiếu kho bạc Mỹ…
Trong lịch sử nước Mỹ, đây là những nỗ lực chưa từng có tiền lệ.
Hai nỗi lo trái dấu
Bởi thế, những nỗi lo lạm phát là điều khó tránh khỏi. Một khi kinh tế Mỹ phục hồi, lượng tiền khổng lồ đã được bơm vào nền kinh tế trong thời gian suy thoái sẽ châm ngòi cho lạm phát. Những khoản vay lãi suất thấp sẽ đẩy giá cả lên, tiền lương vì thế cũng có thể leo thang theo. Lãi suất thấp sẽ khuyến khích hoạt động chi tiêu, khiến người tiêu dùng không còn lo chuyện tiết kiệm…
Nhà kinh tế học Allan Meltzer thuộc Đại học Carnegie Mellon, Mỹ, cảnh báo, FED sẽ “chịp áp lực từ phía Quốc hội, chính quyền và giới doanh nghiệp” đòi ngăn cản sự đi lên của lãi suất. Với thâm hụt ngân sách khổng lồ, Nhà Trắng và Quốc hội Mỹ sẽ muốn giữ lãi suất ở mức thấp. Tâm lý lo sợ lạm phát qua đó sẽ hình thành.
Tuy nhiên, những người giữ quan điểm ngại giảm phát có thể bác lại ngay những lập luận trên. Về lý thuyết, lạm phát là kết quả của tình trạng thừa cầu, thiếu cung. Hiện nay, thị trường đang tồn tại tình trạng thừa cung, thiếu cầu. Tỷ lệ thất nghiệp cao và các hoạt động sản xuất kinh doanh trì trệ (các nhà máy ngưng hoạt động, văn phòng cho thuê trống không, những mỏ khoảng sản đóng cửa) là một “má phanh” đối với sự tăng lên của tiền lương và giá cả. Nếu FED không duy trì dòng tín dụng giá rẻ, nhu cầu co hẹp có thể sẽ khiến giá cả và lương bổng rơi vào một vòng xoáy đi xuống.
“Giảm phát, thay vì lạm phát, là mối nguy hiểm rõ ràng ở ngay thời điểm hiện tại”, nhà kinh tế học đạt giải Nobel Paul Krugman khẳng định.
Cả hai đều đúng?
Việc cho rằng cả hai nhận định trên đều đúng có vẻ như là điều không thể, nhưng có lẽ là như thế.
Krugman đã lưu ý, những áp lực lạm phát ở thời điểm này là gần như không tồn tại. Trong vòng một năm trở lại đây, chỉ số giá tiêu dùng ở Mỹ nhìn chung ổn định. Tháng 5 vừa qua, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ tăng lên mức 9,4%.
Một cuộc điều tra do hãng nghiên cứu Challenger, Gray & Christmas tiến hành cho thấy, 52% số doanh nghiệp được điều tra tại Mỹ đã không tăng hoặc cắt giảm tiền lương. Một cuộc điều tra khác do các nhà kinh tế học Joseph Lupton và David Hensley của ngân hàng JPMorgan Chase tiến hành cho thấy, tình trạng dư thừa nguồn cung đang xảy ra trên phạm vi toàn cầu. Những kỳ vọng lạm phát cũng đang ở mức thấp.
Thực tế này cho phép FED hành động để cứu tăng trưởng. Do kỳ vọng đóng vai trò lớn, nên với kỳ vọng lạm phát ở mức hiện nay, lạm phát sẽ không ngay lập tức xảy ra. Ngay bản thân chuyên gia Meltzer, người có quan điểm lạm phát cao sẽ trở lại cũng cho rằng, lạm phát sẽ không tăng mạnh lên ngay lập tức. “Khi nào lạm phát sẽ trở lại? Chắc chắn không phải là ngay bây giờ”, ông viết.
Tuy nhiên, những cảnh báo của Meltzer không phải là không còn giá trị. Lịch sử cho thấy, FED vẫn thường đi quá xa trong chính sách nới lỏng tiền tệ và thúc đẩy những kỳ vọng lạm phát. Trong các thập niên 1960 và 1970, điều này đã xảy ra thông qua tình trạng cầu vượt cung và vòng xoáy tăng lương-giá cổ điển. Ở thời điểm hiện nay, rủi ro lạm phát có thể nổi lên thông qua tỷ giá hối đoái và giá hàng hóa.
Những mối lo lạm phát có thể khiến giá của các mặt hàng cơ bản (dầu thô và kim loại) và đẩy tỷ giá đồng USD xuống. Hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên đắt đỏ hơn, cho phép các nhà sản xuất trong nước tăng giá hàng bán. Một khi những hoạt động mang tính lạm phát đã hiện hình, tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp cao sẽ đồng thời tồn tại, dẫn tới tình trạng đình lạm đáng sợ. Vào năm 1977, cả tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp tại Mỹ cùng ở mức 7%.
Vai trò của Chủ tịch FED
Có những dấu hiệu cho thấy rủi ro giảm phát tại Mỹ đã giảm bớt, như thị trường nhà đất ấm lên, doanh số thị trường xe hơi được cải thiện, và tăng trưởng có phần khởi sắc ở các thị trường đang nổi lên. Đến một lúc nào đó, FED sẽ phải thực hiện việc tăng lãi suất trở lại.
Chủ tịch FED Ben Bernanke đã cam kết sẽ chặn trước sự trở lại của lạm phát cao. Nhưng liệu FED có xác định được thời điểm hợp lý để nâng lãi suất và chống lại những áp lực chính trị? Liệu những lời hứa của ông có đủ để trấn an thị trường?
Một lý do để thị trường không nên quá tin vào lời hứa này của ông Bernanke vì nhiệm kỳ Chủ tịch FED của ông sẽ kết thúc vào tháng 1 năm sau. Dù ai là nhân vật được Tổng thống Barack Obama bổ nhiệm thay thế ông Bernanke thì người đó ít nhiều cũng sẽ bị nhìn nhận là bám sát hơn chính sách kinh tế của Chính phủ Mỹ hiện nay.
Nếu muốn loại bỏ suy nghĩ này khỏi dư luận, ông Obama nên tái bổ nhiệm ông Bernanke vào ghế Chủ tịch FED. Nếu vậy, cuộc tranh cãi về giảm phát và lạm phát vẫn sẽ còn đó, nhưng nước Mỹ sẽ tránh được sự leo thang xa hơn của những kỳ vọng lạm phát.
(Theo Newsweek)