Phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 8 của Tổng bí thư
Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên khai mạc Hội nghị Trung ương 8
Sáng 30/9, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã khai mạc tại Thủ đô Hà Nội.
VnEconomy xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên khai mạc Hội nghị:
“Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Thực hiện chương trình làm việc toàn khóa, hôm nay, Ban Chấp hành Trung ương bắt đầu họp Hội nghị lần thứ tám để thảo luận, cho ý kiến về tình hình kinh tế-xã hội năm 2013, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2014; 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về phát triển kinh tế-xã hội; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc; và một số vấn đề quan trọng khác liên quan đến công tác xây dựng Đảng.
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và các đại biểu tham dự Hội nghị; xin gửi tới các đồng chí lời chúc tốt đẹp nhất.
Thưa các đồng chí,
Hội nghị của chúng ta diễn ra vào thời điểm giữa nhiệm kỳ khóa XI với nhiều nội dung quan trọng, có tầm ảnh hưởng sâu rộng, được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quan tâm. Theo Quy chế làm việc, Văn phòng Trung ương Đảng đã gửi tài liệu để các đồng chí nghiên cứu trước. Sau đây, tôi xin nêu một số vấn đề có tính gợi mở về những nội dung được trình bày trong các Báo cáo, Tờ trình, mong các đồng chí quan tâm trong quá trình xem xét, thảo luận, quyết định.
1- Về phát triển kinh tế-xã hội
Theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban cán sự đảng Chính phủ đã chuẩn bị Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội năm 2013 và dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2014; Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về phát triển kinh tế-xã hội. Đề nghị Trung ương đồng thời xem xét cả hai Báo cáo; phân tích, đánh giá đúng thực trạng tình hình kinh tế-xã hội nước ta, trọng tâm là việc thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Từ đó đề ra quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cho năm 2014 và 2 năm 2014-2015 nhằm thực hiện đạt kết quả cao nhất Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Để thống nhất nhìn nhận bức tranh thực về kinh tế-xã hội năm 2013, đề nghị các đồng chí bám sát Kết luận của Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội cuối năm 2012 và thực tiễn của đất nước, của bộ, ngành, địa phương nơi công tác, phân tích kỹ tình hình, chỉ rõ những kết quả đạt được trong 9 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2013.
Chú trọng làm rõ các vấn đề như: Kinh tế vĩ mô ổn định đến đâu, liệu có còn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát tăng cao trở lại; tính thanh khoản và độ an toàn hệ thống ngân hàng thương mại như thế nào; tình trạng nợ xấu, sở hữu chéo giữa các ngân hàng, thị trường bất động sản bị đóng băng, "thừa tiền, thiếu vốn" được xử lý ra sao; kết quả của những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đạt được ở mức nào?...
Phải chăng đến năm 2014 vẫn phải tiếp tục thực hiện mục tiêu củng cố, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, phục hồi nhịp độ tăng trưởng gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược; bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Đối với một số chỉ tiêu chủ yếu, Trung ương cần cho ý kiến định hướng để Quốc hội thảo luận, quyết định.
Việc đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về phát triển kinh tế-xã hội bao gồm toàn diện các vấn đề, từ việc tổ chức học tập quán triệt, thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết đến lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch hành động của Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội, Chính phủ và các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội từ Trung ương đến cơ sở.
Tập trung đánh giá sự cần thiết, đúng đắn, kịp thời của việc các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, ngay sau Đại hội XI đã quyết định chuyển nhiệm vụ trọng tâm từ phát triển nhanh sang ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội; việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế đã đem lại những kết quả như thế nào, có gì cần rút kinh nghiệm; việc thực hiện các mục tiêu Đại hội XI đề ra đạt được ở mức nào, có vấn đề gì mới nảy sinh, xu hướng phát triển trong nửa nhiệm kỳ còn lại ?...
Từ đó, chỉ rõ những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo cũng như trong quản lý, điều hành phát triển kinh tế-xã hội. Xác định cụ thể nguyên nhân khách quan, chủ quan, nguyên nhân thuộc về luật pháp, cơ chế, chính sách, nguyên nhân do tổ chức thực hiện; đâu là nguyên nhân chủ yếu, có tính quyết định.
Phải chăng thời gian qua việc tái cấu trúc 3 lĩnh vực ưu tiên theo tinh thần Kết luận của Hội nghị Trung ương 3 được triển khai một cách bị động trong bối cảnh kinh tế vĩ mô không ổn định, cho nên chưa thực hiện được mục tiêu, yêu cầu đề ra; tới đây cần phải tiếp tục có những điều chỉnh và kiên trì tiến hành một cách bài bản, căn cơ hơn, gắn với tái cấu trúc tổng thể nền kinh tế? Coi đột phá về thể chế, cải cách các chế độ và thủ tục hành chính, chống phiền hà, sách nhiễu, là khâu trọng yếu, bảo đảm phát huy đầy đủ, đúng đắn cơ chế thị trường, tạo xung lực mới cho phát triển nhanh và bền vững?
2- Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Cách đây đúng một năm, Hội nghị Trung ương 6 đã ban hành Kết luận về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; Yêu cầu Ban cán sự đảng Chính phủ chủ trì phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và các cơ quan hữu quan tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh Đề án để trình Ban Chấp hành Trung ương vào thời gian thích hợp.
Thời gian qua, Ban cán sự đảng Chính phủ cùng Ban Tuyên giáo Trung ương đã tích cực chuẩn bị, huy động sự tham gia của các cơ quan hữu quan, sự đóng góp đầy tâm huyết và hiệu quả của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đặc biệt là đội ngũ nhà giáo, các cán bộ quản lý giáo dục, hoàn chỉnh Đề án, Tờ trình và dự thảo Nghị quyết để trình Trung ương xem xét, quyết định tại Hội nghị lần này.
Yêu cầu đặt ra là phải tạo được sự thống nhất cao, ban hành được một Nghị quyết Trung ương xứng tầm để lãnh đạo, chỉ đạo phát triển lĩnh vực luôn được coi là quốc sách hàng đầu này. Trung ương cần thảo luận, bàn bạc thật kỹ sự cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; đánh giá thẳng thắn, đúng thực trạng tình hình, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm của những thành tựu, kết quả đã đạt được cũng như những yếu kém, hạn chế cần chấn chỉnh. Đặc biệt là tập trung xác định rõ hơn nội hàm đổi mới căn bản và toàn diện.
Phải chăng đổi mới căn bản là đổi mới từ tư duy, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục-đào tạo cùng các cơ chế, chính sách tổ chức thực hiện. Đổi mới toàn diện là đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến đổi mới các cơ sở giáo dục-đào tạo và sự tham gia của gia đình, cộng đồng và xã hội; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học, ở cả Trung ương và địa phương? Cái gì cần kế thừa, phát huy; cái gì cần bổ sung, sửa đổi?
Từ đó, hoàn thiện các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp, nhất là những giải pháp chủ yếu, có tính đột phá nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục-đào tạo theo tinh thần: Chấn chỉnh, khắc phục triệt để những khuyết điểm, bất cập lâu nay; củng cố những kết quả, thành tựu đã đạt được; phát triển, nâng chất lượng giáo dục-đào tạo lên tầm cao mới.
Theo hướng này, phải chăng có thể thống nhất cao với những đề xuất thuộc về quan điểm như: Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước một bước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Mục tiêu giáo dục là phát triển năng lực người học, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu chú trọng trang bị kiến thức sang tập trung phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với quy luật phát triển khách quan, những tiến bộ khoa học và công nghệ. Chuyển phát triển giáo dục từ chủ yếu theo mục tiêu số lượng sang phát triển theo mục tiêu vừa đáp ứng yêu cầu số lượng, vừa chú trọng nâng cao chất lượng. Thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa và dân chủ hóa giáo dục. Chuyển hệ thống giáo dục cứng nhắc, thiếu tính liên thông sang hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, bảo đảm liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức đào tạo, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập suốt đời...
3- Về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Tại các Hội nghị lần thứ hai, thứ năm và thứ bảy của khóa này, Ban Chấp hành Trung ương đã lần lượt bàn về: Chủ trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992; định hướng về một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; kết luận về việc tiếp thu ý kiến nhân dân hoàn thiện bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII đã thảo luận và cho nhiều ý kiến về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau và toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Sau kỳ họp Quốc hội, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, Ban Biên tập đã nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội; đồng thời tiếp tục tiếp nhận, tổng hợp và nghiên cứu tiếp thu ý kiến của nhân dân, hoàn thiện toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để trình Hội nghị Trung ương lần này.
Như Trung ương đã nhiều lần xác định, đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị, vì Hiến pháp là văn kiện chính trị-pháp lý cơ bản điều chỉnh những quan hệ xã hội trọng yếu nhất, có tính nền tảng, thể hiện bản chất của Nhà nước và chế độ; là đạo luật gốc của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật, bảo đảm sự ổn định chính trị-xã hội và chủ quyền quốc gia. Vừa qua, chúng ta đã phát huy cao độ tinh thần dân chủ và ý thức trách nhiệm, động viên đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Hiến pháp.
Đề nghị Trung ương tiếp tục dành nhiều thời gian nghiên cứu, thảo luận kỹ lưỡng, góp ý cụ thể vào từng chương, điều và toàn văn Dự thảo. Tập trung cho ý kiến đối với một số vấn đề còn có các phương án lựa chọn khác nhau, tạo sự thống nhất cao để Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hoàn chỉnh toàn văn Dự thảo. Đồng thời cho ý kiến về việc lãnh đạo, chỉ đạo trình Quốc hội xem xét, thông qua.
4- Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Cách đây 10 năm, Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với sự đổi mới tư duy mạnh mẽ và có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp mang tính đột phá, khả thi cao. Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết quan trọng này là việc làm hết sức cần thiết để Trung ương phân tích, đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc, có hệ thống tình hình và đề ra các chủ trương, chính sách, biện pháp đúng đắn, phù hợp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tăng cường quốc phòng-an ninh, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong tình hình thế giới, khu vực đã và đang có nhiều diễn biến phức tạp.
Đề nghị các đồng chí tập trung đánh giá khách quan những kết quả đã đạt được, những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và phân tích nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu. Chỉ rõ những mục tiêu, quan điểm, phương châm, tư tưởng chỉ đạo và bài học kinh nghiệm nào đã được thực tế kiểm nghiệm là đúng đắn, cần tiếp tục kiên trì, nghiêm túc thực hiện. Thí dụ như, phân tích, đánh giá về 4 nguy cơ và các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ đó; hay chủ trương xác định thế nào là đối tác, đối tượng trong tình hình mới,...
Đồng thời, cần phân tích thật thấu đáo bối cảnh tình hình trong nước, quốc tế, thấy rõ những biến đổi sâu sắc, diễn biến phức tạp, khó lường và dự báo xu hướng phát triển trong thời gian tới để kịp thời bổ sung, phát triển một số quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và điều chỉnh một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong tình hình mới.
Tập trung làm rõ những thuận lợi, cơ hội cần nắm bắt, những khó khăn, thách thức phải vượt qua để trong mọi tình huống đều bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về thuận lợi, cơ hội, phải chăng đó là: thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới và phát triển; tiềm lực kinh tế, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao; khối đại đoàn kết dân tộc được tăng cường; nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an ninh, sức mạnh chiến đấu của quân đội nhân dân và công an nhân dân được nâng lên một bước?
Về khó khăn, thách thức, phải chăng bao gồm: Sự biến động nhanh chóng, phức tạp của tình hình chính trị, kinh tế thế giới và khu vực, nhất là tình hình trên Biển Đông; sự chống phá của các thế lực thù địch; những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế; những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội?...
Căn cứ vào quy mô và tính chất các nội dung, vấn đề cần điều chỉnh, bổ sung phát triển, đề nghị Trung ương cân nhắc việc ban hành Nghị quyết mới của Trung ương về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới hay chỉ ban hành Kết luận của Hội nghị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX).
5- Về công tác xây dựng Đảng
Tại hội nghị lần này, Bộ Chính trị trình xin Ban Chấp hành Trung ương xem xét, quyết định một số vấn đề quan trọng sau đây:
Một là, xem xét, quyết định việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng: Như các đồng chí đều biết, Hội nghị Trung ương 2 (khóa XI) đã quyết định nâng thẩm quyền ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng từ Bộ Chính trị lên Ban Chấp hành Trung ương.
Việc ban hành và tổ chức thực hiện văn bản này có ý nghĩa rất quan trọng đối với kết quả thi hành Điều lệ Đảng, giữ vững kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên, tạo sức mạnh và sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng. Nhiều khóa trước đây, việc thực hiện Quy chế bầu cử trong Đảng đã tương đối có nền nếp và hiệu quả. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập và có những vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Vì vậy, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Ban Tổ chức Trung ương xây dựng Dự thảo sửa đổi, bổ sung Quy chế bầu cử trong Đảng hiện hành theo nguyên tắc: Kế thừa tối đa những nội dung còn phù hợp; sửa đổi, bổ sung những vấn đề đã bộc lộ bất cập trong thực tiễn thi hành.
Những nội dung mới của Dự thảo Quy chế lần này chủ yếu tập trung vào các vấn đề: Phạm vi điều chỉnh của Quy chế; việc ứng cử, đề cử, bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, bầu bổ sung Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương; thủ tục ứng cử, đề cử, bao gồm điều kiện để được đưa vào danh sách bầu cử, số dư trong danh sách bầu cử và dự kiến trước việc phân công nhiệm vụ sau khi trúng cử...
Đề nghị các đồng chí, trên cơ sở nắm chắc các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng và bằng kinh nghiệm thực tiễn chỉ đạo công tác bầu cử trong Đảng ở các địa phương, cơ quan, đơn vị, đóng góp nhiều ý kiến xác thực để xây dựng, ban hành Quy chế mới hoàn chỉnh hơn, góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng công tác cán bộ của Đảng.
Hai là, quyết định việc thành lập các tiểu ban chuẩn bị Đại hội XII của Đảng: Theo thông lệ và kinh nghiệm chuẩn bị các Đại hội trước đây của Đảng, tại Hội nghị này, Bộ Chính trị trình Trung ương dự kiến thành lập 5 Tiểu ban: Tiểu ban Văn kiện; Tiểu ban kinh tế-xã hội; Tiểu ban Điều lệ Đảng; Tiểu ban Nhân sự; và Tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội.
Các Tiểu ban có nhiệm vụ chuẩn bị Báo cáo Chính trị, Báo cáo kinh tế-xã hội, Báo cáo tổng kết việc thực hiện Điều lệ Đảng và bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng (nếu có) và Báo cáo công tác nhân sự. Đề nghị Trung ương xem xét, quyết định việc thành lập các tiểu ban với cơ cấu và nhân sự cụ thể đã nêu trong Tờ trình của Bộ Chính trị.
Thưa các đồng chí,
Việc hoàn thành tốt các nội dung chương trình của Hội nghị lần này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2014-2015, tiến hành thành công đột phá về thể chế, phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ Tổ quốc và khởi đầu cho quá trình chuẩn bị Đại hội lần thứ XII của Đảng. Vì vậy, đề nghị các đồng chí phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc để hoàn thiện các Báo cáo, Đề án và xem xét, quyết định vào cuối kỳ họp.
Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI. Chúc Hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp.
Xin trân trọng cảm ơn”.
VnEconomy xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên khai mạc Hội nghị:
“Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Thực hiện chương trình làm việc toàn khóa, hôm nay, Ban Chấp hành Trung ương bắt đầu họp Hội nghị lần thứ tám để thảo luận, cho ý kiến về tình hình kinh tế-xã hội năm 2013, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2014; 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về phát triển kinh tế-xã hội; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc; và một số vấn đề quan trọng khác liên quan đến công tác xây dựng Đảng.
Thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và các đại biểu tham dự Hội nghị; xin gửi tới các đồng chí lời chúc tốt đẹp nhất.
Thưa các đồng chí,
Hội nghị của chúng ta diễn ra vào thời điểm giữa nhiệm kỳ khóa XI với nhiều nội dung quan trọng, có tầm ảnh hưởng sâu rộng, được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quan tâm. Theo Quy chế làm việc, Văn phòng Trung ương Đảng đã gửi tài liệu để các đồng chí nghiên cứu trước. Sau đây, tôi xin nêu một số vấn đề có tính gợi mở về những nội dung được trình bày trong các Báo cáo, Tờ trình, mong các đồng chí quan tâm trong quá trình xem xét, thảo luận, quyết định.
1- Về phát triển kinh tế-xã hội
Theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban cán sự đảng Chính phủ đã chuẩn bị Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội năm 2013 và dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2014; Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về phát triển kinh tế-xã hội. Đề nghị Trung ương đồng thời xem xét cả hai Báo cáo; phân tích, đánh giá đúng thực trạng tình hình kinh tế-xã hội nước ta, trọng tâm là việc thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Từ đó đề ra quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cho năm 2014 và 2 năm 2014-2015 nhằm thực hiện đạt kết quả cao nhất Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Để thống nhất nhìn nhận bức tranh thực về kinh tế-xã hội năm 2013, đề nghị các đồng chí bám sát Kết luận của Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội cuối năm 2012 và thực tiễn của đất nước, của bộ, ngành, địa phương nơi công tác, phân tích kỹ tình hình, chỉ rõ những kết quả đạt được trong 9 tháng đầu năm và dự báo cả năm 2013.
Chú trọng làm rõ các vấn đề như: Kinh tế vĩ mô ổn định đến đâu, liệu có còn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát tăng cao trở lại; tính thanh khoản và độ an toàn hệ thống ngân hàng thương mại như thế nào; tình trạng nợ xấu, sở hữu chéo giữa các ngân hàng, thị trường bất động sản bị đóng băng, "thừa tiền, thiếu vốn" được xử lý ra sao; kết quả của những nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đạt được ở mức nào?...
Phải chăng đến năm 2014 vẫn phải tiếp tục thực hiện mục tiêu củng cố, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, phục hồi nhịp độ tăng trưởng gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược; bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Đối với một số chỉ tiêu chủ yếu, Trung ương cần cho ý kiến định hướng để Quốc hội thảo luận, quyết định.
Việc đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về phát triển kinh tế-xã hội bao gồm toàn diện các vấn đề, từ việc tổ chức học tập quán triệt, thể chế hóa, cụ thể hóa Nghị quyết đến lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch hành động của Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội, Chính phủ và các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội từ Trung ương đến cơ sở.
Tập trung đánh giá sự cần thiết, đúng đắn, kịp thời của việc các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, ngay sau Đại hội XI đã quyết định chuyển nhiệm vụ trọng tâm từ phát triển nhanh sang ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội; việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế đã đem lại những kết quả như thế nào, có gì cần rút kinh nghiệm; việc thực hiện các mục tiêu Đại hội XI đề ra đạt được ở mức nào, có vấn đề gì mới nảy sinh, xu hướng phát triển trong nửa nhiệm kỳ còn lại ?...
Từ đó, chỉ rõ những nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo cũng như trong quản lý, điều hành phát triển kinh tế-xã hội. Xác định cụ thể nguyên nhân khách quan, chủ quan, nguyên nhân thuộc về luật pháp, cơ chế, chính sách, nguyên nhân do tổ chức thực hiện; đâu là nguyên nhân chủ yếu, có tính quyết định.
Phải chăng thời gian qua việc tái cấu trúc 3 lĩnh vực ưu tiên theo tinh thần Kết luận của Hội nghị Trung ương 3 được triển khai một cách bị động trong bối cảnh kinh tế vĩ mô không ổn định, cho nên chưa thực hiện được mục tiêu, yêu cầu đề ra; tới đây cần phải tiếp tục có những điều chỉnh và kiên trì tiến hành một cách bài bản, căn cơ hơn, gắn với tái cấu trúc tổng thể nền kinh tế? Coi đột phá về thể chế, cải cách các chế độ và thủ tục hành chính, chống phiền hà, sách nhiễu, là khâu trọng yếu, bảo đảm phát huy đầy đủ, đúng đắn cơ chế thị trường, tạo xung lực mới cho phát triển nhanh và bền vững?
2- Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Cách đây đúng một năm, Hội nghị Trung ương 6 đã ban hành Kết luận về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; Yêu cầu Ban cán sự đảng Chính phủ chủ trì phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và các cơ quan hữu quan tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh Đề án để trình Ban Chấp hành Trung ương vào thời gian thích hợp.
Thời gian qua, Ban cán sự đảng Chính phủ cùng Ban Tuyên giáo Trung ương đã tích cực chuẩn bị, huy động sự tham gia của các cơ quan hữu quan, sự đóng góp đầy tâm huyết và hiệu quả của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đặc biệt là đội ngũ nhà giáo, các cán bộ quản lý giáo dục, hoàn chỉnh Đề án, Tờ trình và dự thảo Nghị quyết để trình Trung ương xem xét, quyết định tại Hội nghị lần này.
Yêu cầu đặt ra là phải tạo được sự thống nhất cao, ban hành được một Nghị quyết Trung ương xứng tầm để lãnh đạo, chỉ đạo phát triển lĩnh vực luôn được coi là quốc sách hàng đầu này. Trung ương cần thảo luận, bàn bạc thật kỹ sự cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; đánh giá thẳng thắn, đúng thực trạng tình hình, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm của những thành tựu, kết quả đã đạt được cũng như những yếu kém, hạn chế cần chấn chỉnh. Đặc biệt là tập trung xác định rõ hơn nội hàm đổi mới căn bản và toàn diện.
Phải chăng đổi mới căn bản là đổi mới từ tư duy, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục-đào tạo cùng các cơ chế, chính sách tổ chức thực hiện. Đổi mới toàn diện là đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến đổi mới các cơ sở giáo dục-đào tạo và sự tham gia của gia đình, cộng đồng và xã hội; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học, ở cả Trung ương và địa phương? Cái gì cần kế thừa, phát huy; cái gì cần bổ sung, sửa đổi?
Từ đó, hoàn thiện các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp, nhất là những giải pháp chủ yếu, có tính đột phá nhằm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục-đào tạo theo tinh thần: Chấn chỉnh, khắc phục triệt để những khuyết điểm, bất cập lâu nay; củng cố những kết quả, thành tựu đã đạt được; phát triển, nâng chất lượng giáo dục-đào tạo lên tầm cao mới.
Theo hướng này, phải chăng có thể thống nhất cao với những đề xuất thuộc về quan điểm như: Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước một bước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Mục tiêu giáo dục là phát triển năng lực người học, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu chú trọng trang bị kiến thức sang tập trung phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với quy luật phát triển khách quan, những tiến bộ khoa học và công nghệ. Chuyển phát triển giáo dục từ chủ yếu theo mục tiêu số lượng sang phát triển theo mục tiêu vừa đáp ứng yêu cầu số lượng, vừa chú trọng nâng cao chất lượng. Thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa và dân chủ hóa giáo dục. Chuyển hệ thống giáo dục cứng nhắc, thiếu tính liên thông sang hệ thống giáo dục mở, linh hoạt, bảo đảm liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức đào tạo, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập suốt đời...
3- Về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Tại các Hội nghị lần thứ hai, thứ năm và thứ bảy của khóa này, Ban Chấp hành Trung ương đã lần lượt bàn về: Chủ trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992; định hướng về một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; kết luận về việc tiếp thu ý kiến nhân dân hoàn thiện bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII đã thảo luận và cho nhiều ý kiến về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau và toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Sau kỳ họp Quốc hội, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, Ban Biên tập đã nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội; đồng thời tiếp tục tiếp nhận, tổng hợp và nghiên cứu tiếp thu ý kiến của nhân dân, hoàn thiện toàn văn Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để trình Hội nghị Trung ương lần này.
Như Trung ương đã nhiều lần xác định, đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị, vì Hiến pháp là văn kiện chính trị-pháp lý cơ bản điều chỉnh những quan hệ xã hội trọng yếu nhất, có tính nền tảng, thể hiện bản chất của Nhà nước và chế độ; là đạo luật gốc của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật, bảo đảm sự ổn định chính trị-xã hội và chủ quyền quốc gia. Vừa qua, chúng ta đã phát huy cao độ tinh thần dân chủ và ý thức trách nhiệm, động viên đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Hiến pháp.
Đề nghị Trung ương tiếp tục dành nhiều thời gian nghiên cứu, thảo luận kỹ lưỡng, góp ý cụ thể vào từng chương, điều và toàn văn Dự thảo. Tập trung cho ý kiến đối với một số vấn đề còn có các phương án lựa chọn khác nhau, tạo sự thống nhất cao để Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp hoàn chỉnh toàn văn Dự thảo. Đồng thời cho ý kiến về việc lãnh đạo, chỉ đạo trình Quốc hội xem xét, thông qua.
4- Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Cách đây 10 năm, Hội nghị Trung ương 8 (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với sự đổi mới tư duy mạnh mẽ và có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp mang tính đột phá, khả thi cao. Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết quan trọng này là việc làm hết sức cần thiết để Trung ương phân tích, đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc, có hệ thống tình hình và đề ra các chủ trương, chính sách, biện pháp đúng đắn, phù hợp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tăng cường quốc phòng-an ninh, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong tình hình thế giới, khu vực đã và đang có nhiều diễn biến phức tạp.
Đề nghị các đồng chí tập trung đánh giá khách quan những kết quả đã đạt được, những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và phân tích nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm chủ yếu. Chỉ rõ những mục tiêu, quan điểm, phương châm, tư tưởng chỉ đạo và bài học kinh nghiệm nào đã được thực tế kiểm nghiệm là đúng đắn, cần tiếp tục kiên trì, nghiêm túc thực hiện. Thí dụ như, phân tích, đánh giá về 4 nguy cơ và các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ đó; hay chủ trương xác định thế nào là đối tác, đối tượng trong tình hình mới,...
Đồng thời, cần phân tích thật thấu đáo bối cảnh tình hình trong nước, quốc tế, thấy rõ những biến đổi sâu sắc, diễn biến phức tạp, khó lường và dự báo xu hướng phát triển trong thời gian tới để kịp thời bổ sung, phát triển một số quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và điều chỉnh một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong tình hình mới.
Tập trung làm rõ những thuận lợi, cơ hội cần nắm bắt, những khó khăn, thách thức phải vượt qua để trong mọi tình huống đều bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về thuận lợi, cơ hội, phải chăng đó là: thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới và phát triển; tiềm lực kinh tế, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao; khối đại đoàn kết dân tộc được tăng cường; nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an ninh, sức mạnh chiến đấu của quân đội nhân dân và công an nhân dân được nâng lên một bước?
Về khó khăn, thách thức, phải chăng bao gồm: Sự biến động nhanh chóng, phức tạp của tình hình chính trị, kinh tế thế giới và khu vực, nhất là tình hình trên Biển Đông; sự chống phá của các thế lực thù địch; những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế; những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội?...
Căn cứ vào quy mô và tính chất các nội dung, vấn đề cần điều chỉnh, bổ sung phát triển, đề nghị Trung ương cân nhắc việc ban hành Nghị quyết mới của Trung ương về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới hay chỉ ban hành Kết luận của Hội nghị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX).
5- Về công tác xây dựng Đảng
Tại hội nghị lần này, Bộ Chính trị trình xin Ban Chấp hành Trung ương xem xét, quyết định một số vấn đề quan trọng sau đây:
Một là, xem xét, quyết định việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng: Như các đồng chí đều biết, Hội nghị Trung ương 2 (khóa XI) đã quyết định nâng thẩm quyền ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng từ Bộ Chính trị lên Ban Chấp hành Trung ương.
Việc ban hành và tổ chức thực hiện văn bản này có ý nghĩa rất quan trọng đối với kết quả thi hành Điều lệ Đảng, giữ vững kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên, tạo sức mạnh và sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng. Nhiều khóa trước đây, việc thực hiện Quy chế bầu cử trong Đảng đã tương đối có nền nếp và hiệu quả. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập và có những vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Vì vậy, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Ban Tổ chức Trung ương xây dựng Dự thảo sửa đổi, bổ sung Quy chế bầu cử trong Đảng hiện hành theo nguyên tắc: Kế thừa tối đa những nội dung còn phù hợp; sửa đổi, bổ sung những vấn đề đã bộc lộ bất cập trong thực tiễn thi hành.
Những nội dung mới của Dự thảo Quy chế lần này chủ yếu tập trung vào các vấn đề: Phạm vi điều chỉnh của Quy chế; việc ứng cử, đề cử, bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, bầu bổ sung Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương; thủ tục ứng cử, đề cử, bao gồm điều kiện để được đưa vào danh sách bầu cử, số dư trong danh sách bầu cử và dự kiến trước việc phân công nhiệm vụ sau khi trúng cử...
Đề nghị các đồng chí, trên cơ sở nắm chắc các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng và bằng kinh nghiệm thực tiễn chỉ đạo công tác bầu cử trong Đảng ở các địa phương, cơ quan, đơn vị, đóng góp nhiều ý kiến xác thực để xây dựng, ban hành Quy chế mới hoàn chỉnh hơn, góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng công tác cán bộ của Đảng.
Hai là, quyết định việc thành lập các tiểu ban chuẩn bị Đại hội XII của Đảng: Theo thông lệ và kinh nghiệm chuẩn bị các Đại hội trước đây của Đảng, tại Hội nghị này, Bộ Chính trị trình Trung ương dự kiến thành lập 5 Tiểu ban: Tiểu ban Văn kiện; Tiểu ban kinh tế-xã hội; Tiểu ban Điều lệ Đảng; Tiểu ban Nhân sự; và Tiểu ban tổ chức phục vụ Đại hội.
Các Tiểu ban có nhiệm vụ chuẩn bị Báo cáo Chính trị, Báo cáo kinh tế-xã hội, Báo cáo tổng kết việc thực hiện Điều lệ Đảng và bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng (nếu có) và Báo cáo công tác nhân sự. Đề nghị Trung ương xem xét, quyết định việc thành lập các tiểu ban với cơ cấu và nhân sự cụ thể đã nêu trong Tờ trình của Bộ Chính trị.
Thưa các đồng chí,
Việc hoàn thành tốt các nội dung chương trình của Hội nghị lần này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2014-2015, tiến hành thành công đột phá về thể chế, phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ Tổ quốc và khởi đầu cho quá trình chuẩn bị Đại hội lần thứ XII của Đảng. Vì vậy, đề nghị các đồng chí phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận, đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc để hoàn thiện các Báo cáo, Đề án và xem xét, quyết định vào cuối kỳ họp.
Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố khai mạc Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI. Chúc Hội nghị của chúng ta thành công tốt đẹp.
Xin trân trọng cảm ơn”.