Từ năm 2025 sẽ bổ sung tiền lương đóng bảo hiểm thấp nhất, cao nhất
Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất sẽ bằng một nửa mức lương tối thiểu tháng vùng cao nhất do Chính phủ công bố, cao nhất bằng 8 lần mức lương tối thiểu tháng vùng…
Đề xuất được nêu tại Tờ trình Dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) vừa được Chính phủ trình Quốc hội.
Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội nêu: Sửa đổi quy định về căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của khu vực doanh nghiệp ít nhất bằng khoảng 70% tổng tiền lượng và các khoản thu nhập khác có tính chất lượng của người lao động, để khắc phục tình trạng trốn đóng, đóng không đủ bảo hiểm xã hội, ảnh hưởng đến khả năng cân đối Quỹ Bảo hiểm xã hội và quyền lợi của người lao động.
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tiền lương bình quân làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc năm 2022 của người lao động là 5,73 triệu đồng/tháng, chiếm khoảng 75% thu nhập bình quân của người lao động làm công, hưởng lương.
Trong khi đó, Luật Bảo hiểm xã hội 2014 mới chỉ quy định về tiền lương/thu nhập làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cao nhất nhưng chưa có quy định về tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất.
Mặc dù hiện nay quy định về căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc tương đối đầy đủ tại các văn bản quy định chi tiết Luật, tuy nhiên, do Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định chung, chưa đủ rõ nên còn gặp khó khăn trong quá trình xây dựng các văn bản quy định chi tiết và quá trình triển khai trong thực tiễn.
Vì vậy, Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) bổ sung tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất bằng một nửa mức lương tối thiểu tháng vùng cao nhất do Chính phủ công bố, cao nhất bằng 8 lần mức lương tối thiểu tháng vùng cao nhất do Chính phủ công bố.
Hiện mức lương tối thiểu tháng của người lao động làm việc trong doanh nghiệp ở vùng 1 là 4,68 triệu đồng; vùng 2 là 4,16 triệu, vùng 3 là 3,64 triệu và vùng 4 là 3,25 triệu. Mức này đã tăng 6% so với trước ngày 1/7/2022 và áp dụng đến nay.
Ban soạn thảo cho rằng, việc bổ sung tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất và cao nhất cũng là cơ sở quy định căn cứ đóng bảo hiểm xã hội đối với những đối tượng không hưởng tiền lương, như chủ hộ kinh doanh; người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương...Đồng thời, là căn cứ để xác định trách nhiệm tham gia đối với đối tượng người lao động làm việc không trọn thời gian.
Về tiền lương tính đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với khu vực ngoài Nhà nước, cơ bản kế thừa quy định hiện hành, song quy định cụ thể hơn theo hướng tiền lương tính đóng bảo hiểm xã hội là tiền lương tháng, bao gồm mức lương, phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác, được trả thường xuyên và ổn định trong mỗi kỳ trả lương.
Trên cơ sở đó, Chính phủ quy định chi tiết nhằm xác định cụ thể các khoản phải đóng, không phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; việc xác định tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội đối với trường hợp thỏa thuận trả lương theo giờ, ngày, tuần và theo sản phẩm, khoán.
Hiện nay, tiền lương tính đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được quy định tại Điều 89 Luật Bảo hiểm xã hội 2014.
Cụ thể, người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định thì tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là tiền lương theo ngạch, bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có).
Người lao động hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn thì tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là mức lương cơ sở.
Đối với người lao động đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là mức lương và phụ cấp lương theo quy định của pháp luật về lao động.
Từ ngày 1/1/2018 trở đi, tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật về lao động.
Tiền lương tính đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc tối đa bằng 20 lần mức lương cơ sở (tương ứng với 36 triệu đồng).
Dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội thảo luận cho ý kiến lần đầu tại kỳ họp tháng 10/2023, thông qua tại kỳ họp tháng 5/2024 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2025.