WB: Việt Nam vẫn cần thận trọng với rủi ro lạm phát
Cả lạm phát cơ bản và giá lương thực, thực phẩm đều tiếp tục nhích lên. Do đó, Việt Nam cần cẩn trọng với rủi ro lạm phát...
Tại báo cáo cập nhật tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 5/2022 của Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố, cơ quan này đánh giá, nền kinh tế Việt Nam đang lấy được đà phục hồi bất chấp bất định toàn cầu gia tăng liên quan đến cuộc xung đột kéo dài ở Ukraine, giá hàng hóa thế giới tăng và điều kiện tài chính toàn cầu đang thắt chặt nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần theo dõi.
Trong đó, Việt Nam vẫn cần thận trọng với lạm phát và các rủi ro đối với việc duy trì tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ như hiện nay.
Hiện tại, cả lạm phát cơ bản và giá lương thực, thực phẩm đều tiếp tục nhích lên, cho thấy cần phải theo dõi chặt chẽ. Nếu lạm phát tiếp diễn trong trung hạn thì nền kinh tế nên được cho phép điều chỉnh theo mức giá cả cao hơn, với các cấp có thẩm quyền đóng vai trò cung cấp các ưu đãi khuyến khích đầu tư nhằm nâng cao năng suất và tổng cung.
Gián đoạn chuỗi cung ứng có thể tiếp tục nâng giá nhập khẩu và ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ giá thương mại vốn đã xấu đi đáng kể trong quý 1/2022. Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Trung Quốc, ba đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, được kỳ vọng sẽ đạt tốc độ tăng trưởng thấp hơn dự kiến trong năm 2022 và điều này có thể ảnh hưởng đến viễn cảnh xuất khẩu của Việt Nam.
Ngoài ra, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai và là nguồn nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam nên tác động toàn phần của tình trạng phong tỏa ở quốc gia này đối với hoạt động sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo và xuất khẩu của Việt Nam sẽ còn được cảm nhận trong những tháng tới. Điều này cho thấy, đa dạng hóa đối tác thương mại sẽ là một cân nhắc chiến lược an toàn để giảm nhẹ rủi ro và đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu được duy trì.
Cũng tại báo cáo, WB đã đưa ra một số đánh giá về tình hình kinh tế Việt Nam thời gian qua. Cụ thể, trong khi xuất khẩu tăng trưởng nhanh, tăng trưởng nhập khẩu lại đi ngang, phản ánh sự gián đoạn chuỗi cung ứng ở Việt Nam do tác động của chính sách Zero Covid-19 ở Trung Quốc.
Giữa bất định toàn cầu gia tăng, vốn FDI giải ngân vẫn tăng trưởng mạnh trong khi vốn FDI đăng ký giảm tháng thứ 3 liên tiếp. Lạm phát CPI nhích tăng nhẹ từ tỷ lệ 2,4% trong tháng 3 lên 2,6% trong tháng 4 và lạm phát cơ bản tăng lên 1,5% - là tỷ lệ cao trong 17 tháng qua - một phần phản ánh nhu cầu trong nước vốn đang phục hồi lại được đẩy lên bởi chi tiêu tiêu dùng cho hai kỳ nghỉ lễ tăng.
Điểm đáng chú ý là tăng trưởng tín dụng được đẩy mạnh để đáp ứng nhu cầu đang ngày tăng cao. Cụ thể, tăng trưởng tín dụng tăng tốc từ 15,9% trong tháng 3 (so cùng kỳ năm trước) lên 16,4% trong tháng 4 (so cùng kỳ năm trước), tốc độ cao nhất kể từ tháng 1/2018.
Tăng trưởng tín dụng nhanh hơn có thể phản ánh nhu cầu tín dụng cao hơn do người tiêu dùng tăng chi tiêu cho hai kỳ nghỉ lễ dài và các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng được kỳ vọng sẽ tăng mạnh trong mùa hè.
Mặc dù vậy, lãi suất qua đêm liên ngân hàng vẫn giảm từ 2,08% vào cuối tháng 3 xuống còn 1,37% trong tháng 4, thấp hơn nhiều so với lãi suất chiết khấu 2,5% của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Lãi suất giảm cho thấy thanh khoản tương đối dồi dào trên thị trường trong nước. Điều này có thể phản ánh mức thặng dư ngân sách Nhà nước đáng kể và sự tăng trưởng mạnh hơn của tiền gửi từ khu vực tư nhân sau khi một số ngân hàng nâng lãi suất.
Bên cạnh đó, Ngân sách Nhà nước ghi nhận tháng thứ 4 liên tiếp bội thu nhờ thu ngân sách đạt kết quả tốt cân đối ngân sách bội thu 2,9 tỷ USD trong tháng 4. Thu ngân sách tăng tháng thứ tư liên tiếp (với tốc độ 32,2% so cùng kỳ năm trước), trong khi chi ngân sách giảm 2,4% (so cùng kỳ năm trước) do giảm chi thường xuyên. Trong 4 tháng đầu năm 2022, thu ngân sách đạt 46% dự toán trong khi chi chỉ đạt 26% dự toán, dẫn đến bội thu 7,7 tỷ USD. Giải ngân đầu tư công đạt 18,2% kế hoạch do Quốc hội phê duyệt, tương đương với mức ghi nhận trong cùng kỳ năm trước.
Kho bạc Nhà nước phát hành lượng trái phiếu chính phủ bằng nội tệ có giá trị tương đương 201 triệu USD trong tháng 4, toàn bộ đều có kỳ hạn dài (mười năm trở lên). Lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm trên thị trường sơ cấp tăng nhẹ từ 2,20% vào cuối tháng 3 lên 2,28% vào cuối tháng 4.
Cùng lúc đó, tỷ lệ trúng thầu, tức là tỷ lệ giá trị trái phiếu trúng thầu trên giá trị trái phiếu được Kho bạc mời thầu đã giảm tháng thứ 3 liên tiếp, từ 31% trong tháng 3 xuống còn 22% trong tháng 4, tỷ lệ thấp nhất trong 12 tháng qua.
Trong 4 tháng đầu năm 2022, tổng khối lượng trái phiếu phát hành (bao gồm trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh) đạt 11,5% kế hoạch năm, thấp hơn rất nhiều so với cùng kỳ năm trước (18,7%).