Chuyên gia hiến kế cho chương trình phục hồi và phát triển kinh tế
Các ý kiến đại biểu tập trung vào các chính sách tài khóa và tiền tệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khôi phục nguồn lao động, đảm bảo an sinh xã hội cho người dân trong và sau đại dịch...
Để góp phần xây dựng và hiến kế cho chương trình phục hồi và phát triển kinh tế thời gian tới, tại ''Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2021: Phục hồi và Phát triển bền vững'' ngày 5/12, các chuyên gia, nhà kinh tế đã chia sẻ công trình nghiên cứu cũng như nêu quan điểm từ các điểm cầu.
TẬN DỤNG DƯ ĐỊA TÀI KHÓA, KHÔNG QUÊN MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG MỚI
Trong khuôn khổ diễn đàn, tại tọa đàm chuyên đề về phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ để phục hồi và phát triển kinh tế, GS.TS Vũ Sỹ Cường, giảng viên cao cấp Học viện Tài chính, nhận định dư địa cho chính sách tài khóa vẫn còn nhưng cần phải đặc biệt lưu ý đến thách thức từ tính bất định của dịch bệnh và nếu dùng hết dư địa sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do đó, dù có dư địa tài khóa nhưng chỉ ở mức độ nhất định mà không quá lớn. Ông nhấn mạnh sự cần thiết của việc phối hợp các chính sách và chỉ rõ điều này sẽ nhằm tăng tính hiệu lực của chính sách, khắc phục độ trễ chính sách, bảo đảm tính linh hoạt cao hơn và ổn định của chính sách.
Trong khi đó, ông Jacques Morisset, Kinh tế trưởng Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, cho rằng thời gian qua, Việt Nam mới chủ yếu sử dụng chính sách tiền tệ và còn nhiều dư địa để sử dụng chính sách tài khóa cho phục hồi kinh tế. Đại diện Ngân hàng Thế giới cho rằng Việt Nam cần ưu tiên phục hồi sau khủng hoảng. Theo đó cần hành động nhanh để kích thích tiêu dùng và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp. Đồng thời, ông cũng lưu ý không được bỏ quên mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam. Trong đó, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhấn mạnh các ngành có giá trị gia tăng cao, phát triển bình đẳng, ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh.
Theo ông Morisset, Việt Nam cần thay thế các ưu đãi thuế dựa trên lợi nhuận (miễn, giảm thuế suất) đã lỗi thời bằng các ưu đãi thuế dựa trên chi phí cho phép các doanh nghiệp mục tiêu được khấu trừ bổ sung, như chi phí vốn, chi phí lao động, chi phí lãi. Tạm thời giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với một số hàng hóa và dịch vụ; tăng cường các quy định chống chuyển dịch lợi nhuận; áp dụng hoặc tăng cường đánh thuế đối với nền kinh tế kỹ thuật số; giảm danh mục hàng hóa, dịch vụ thuộc diện miễn thuế giá trị gia tăng hoặc hưởng thuế suất 5%; tăng thuế tiêu thụ đặc biệt và áp thuế carbon; ban hành thuế tài sản.
LƯU TÂM HỆ SINH THÁI ĐỔI MỚI SÁNG TẠO, LẤY DOANH NGHIỆP LÀM TRUNG TÂM
Tham gia thảo luận tại diễn đàn, quan tâm tới vấn đề đổi mới sáng tạo, GS. Nguyễn Đức Khương của IPAG Business School & AVSE Global, tham gia từ điểm cầu trực tuyến tại Pháp, đã đề xuất một số chính sách nhằm thúc đẩy đổi mới hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, phục hồi phát triển kinh tế.
Theo ông, cần kiến tạo môi trường vĩ mô để thúc đẩy đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, khuyến khích đầu tư mạo hiểm. Ngoài ra, cần thiết lập các nền tảng trực tuyến để người dân có thể góp ý các dự án, chính sách đổi mới sáng tạo. Song song với đó, hỗ trợ hoạt động nghiên cứu và đổi mới của các trường đại học, tổ chức nghiên cứu và doanh nghiệp phối hợp; thúc đẩy ứng dụng công nghệ hiện có để tạo ra các doanh nghiệp và việc làm mới…
Ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hỗ trợ doanh nghiệp thực thi đổi mới, chú trọng đổi mới mô hình kinh doanh, thu hút nhân tài, đầu tư công nghệ và dữ liệu lớn, chuyển đổi số, thúc đẩy dịch vụ lưu động. Ông cho rằng chỉ có sự gắn kết chặt chẽ con người - quy trình - luật chơi mới tạo ra được một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo giải quyết hiệu quả các thách thức hiện tại và tương lai.
Đứng ở góc độ doanh nghiệp, ông Đậu Anh Tuấn - Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) quan tâm tới những thách thức mới, xu hướng kinh doanh mới trong thời gian tới. Ông nhận định bối cảnh mới của năm 2020-2021 đã đặt cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trước những thách thức “rất mới” và “rất khác”.
“Tính bất định cao hơn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Theo đó, doanh nghiệp không chỉ đối mặt với vấn đề kinh doanh trực tiếp của mình và ngành của mình mà còn đối mặt với những thách thức toàn cầu, những vấn đề lớn hơn không biên giới như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, cạnh tranh giữa các nước lớn…”, ông Tuấn cho biết.
Tuy nhiên, ông cho rằng trước biến động của thực tiễn, doanh nghiệp Việt Nam không ngại thay đổi.
“Với gen của mình, doanh nghiệp Việt Nam luôn có khả năng thích ứng cao và đã bắt đầu quan tâm đến thị trường trong nước, bước đầu hướng đến những tiêu chuẩn xanh hơn, nhân văn hơn”, ông Tuấn cho biết. “Covid-19 gây nhà nhiều khó khăn nhưng cũng là cơ hội lớn để doanh nghiệp Việt nâng cấp mình”.
Trong tham luận gửi tới diễn đàn trước đó, ông Tuấn kiến nghị một loạt giải pháp ngắn hạn để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi như tạo thuận lợi cho việc tiếp cận thông tin chính sách hỗ trợ doanh nghiệp; tránh tuyệt đối việc áp dụng máy móc và cực đoan các biện pháp hạn chế, phong tỏa do dịch Covid-19 để tránh đứt gãy chuỗi cung ứng của doanh nghiệp; hỗ trợ gõ khó tài chính và tăng khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp…
KHUYẾN NGHỊ TỪ CHUYÊN GIA QUỐC TẾ
Cũng tại tọa đàm, nhiều chuyên gia nước ngoài đã đóng góp ý kiến tâm huyết cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam trong xây dựng chương trình phục hồi và phát triển kinh tế.
Về giải pháp phục hồi kinh tế, bà Carolyn Turk - Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, đưa ra nhiều kiến nghị cho Việt Nam gồm tiếp tục đầu tư cho hệ thống y tế, cân nhắc việc sử dụng cả chính sách tài khóa và tiền tệ để tái thiết nền kinh tế, đặc biệt là giảm sự cứng nhắc trong hệ thống phân bổ ngân sách, cho phép nguồn vốn được phân bổ dễ dàng hơn giữa các danh mục chi tiêu. Bà cũng cho rằng Việt Nam cần cân nhắc về tính hiệu quả không chỉ trong doanh nghiệp mà còn trong hoạt động của Chính phủ. Cùng với đó cân nhắc tới tiêu dùng cá nhân, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp, cho người dân.
“Các gói hỗ trợ kinh tế tại Việt Nam cho các doanh nghiệp, cá nhân, các hộ gia đình so với khu vực cho tới thời điểm này vẫn còn thấp, cho nên chúng ta có thể cân nhắc việc gia tăng hỗ trợ và chúng tôi tin rằng vẫn còn dư địa tài khóa để làm việc này. Tuy nhiên, để các gói hỗ trợ hiệu quả thì chúng ta cần quy trình thực hiện mạnh mẽ và mục tiêu cụ thể, rõ ràng”, bà Turk kiến nghị.
Còn ông Patrick Lenain - Phó Vụ trưởng, Vụ Kinh tế, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), đề xuất các ưu tiên trong đó có việc nhanh chóng đưa ra các giải pháp quyết liệt để hỗ trợ kinh tế vĩ mô
Theo ông so với các nền kinh tế phát triển, việc triển khai các gói hỗ trợ chính sách ở các nền kinh tế mới nổi như Việt Nam còn ít và bị trì hoãn. Điều này dẫn đến sự phục hồi kinh tế thất bại, có nguy cơ làm suy yếu tăng trưởng dài hạn.
“Nếu không nhận được đủ sự hỗ trợ, nhiều công ty sẽ phá sản, các kế hoạch đầu tư không được triển khai, công nhân mất việc làm, trẻ em không được đến trường. Trong khi đó, các nền kinh tế thị trường mới nổi triển khai các gói hỗ trợ lớn đã vận hành rất tốt. Kể từ khi đại dịch bùng phát, Malaysia đã hai lần nâng trần nợ công, từ 55% GDP lên 65% GDP. Malaysia đã tung ra các gói cứu trợ khổng lồ, có quy mô lên tới hơn 35% GDP, giúp nền kinh tế tiếp tục phát triển”, ông Lenain phân tích.
Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng chi tiêu công nhiều hơn đồng nghĩa với nợ nhiều hơn, do đó cần lựa chọn các chương trình chi tiêu tốt như cơ sở hạ tầng kỹ thuật số. Bên cạnh đó, đầu tư công cũng phải tính tới vấn đề biến đổi khí hậu bằng cách cắt giảm lượng khí thải carbon, đầu tư vào giáo dục và phát triển kỹ năng.
Nhận định xu hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài gặp khó khăn hơn do các nền kinh tế phát triển đang cố gắng mang dây chuyền sản xuất và việc làm trở lại đất nước của họ, ông Lenain cho rằng Việt Nam sẽ cần phải tăng cường khả năng cạnh tranh và sự hấp dẫn hơn nữa đối với nhà đầu tư nước ngoài.
“Việt Nam có tiềm năng kinh tế rất lớn. Trước đại dịch, thành tựu kinh tế của Việt Nam rất nổi bật, với mức tăng trưởng GDP trung bình gần 7% mỗi năm. Đây là con số rất là cao. Với những cải cách chính sách đúng đắn, chúng tôi tin tưởng rằng Việt Nam sẽ đạt được sự thịnh vượng về kinh tế trong tương lai gần”, đại diện OECD bày tỏ.
ĐÁNH GIÁ TỔNG THỂ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẠI DỊCH TỚI CÁC NHÓM ĐỐI TƯỢNG
Trong khi đó, tại tọa đàm chuyên đề về đảo đảm an sinh xã hội và nguồn cung lao động, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội Lưu Quang Tuấn cho rằng thời gian tới cần nghiên cứu, đánh giá tổng thể tác động của đại dịch Covid-19 đến các nhóm đối tượng để làm cơ sở xây dựng các chính sách, kế hoạch đặc thù, thực hiện giải pháp sau đại dịch. Cùng với đó, nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nhóm đối tượng trong và sau đại dịch.
Ông Tuấn cũng nhấn mạnh cần khẩn trương sửa đổi Luật Bảo hiểm xã hội và Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm y tế… để nhanh chóng mở rộng phạm vi bao phủ của các chương trình an sinh xã hội dựa trên đóng góp như là một chiến lược để phát triển hệ thống an sinh xã hội tiến bộ, bền vững, phù hợp với các thách thức khách quan về già hóa dân số, biến đổi khí hậu, cạnh tranh quốc tế. Bên cạnh đó, tăng cường và hoàn thiện các chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên và đột xuất, đặc biệt là chính sách hỗ trợ đối tượng yếu thế bị ảnh hưởng bởi các trường hợp khẩn cấp trên diện rộng, đảm bảo quy trình xác định đối tượng, xác định thiệt hại và thủ tục hành chính được rút gọn tối đa để đảm bảo hỗ trợ kịp thời.
Còn theo ông ông Phạm Tấn Công, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), ngoài những gói hỗ trợ phục hồi, để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, cần có cách tiếp cận mới, nhận thức mới, chính sách và thể chế mới. Gói thể chế này nên cũng là một phần trong chương trình phục hồi bền vững, và đây là gói cứu trợ mà doanh nghiệp rất mong mỏi.
Trong khi đó, một số ý kiến cho rằng trong dịch bệnh Covid-19, lĩnh vực văn hóa, giáo dục cũng chịu ảnh hưởng tiêu cực. Theo đó các ý kiến khuyến nghị văn hóa phải được xem là một trong những nhân tố dẫn đến phục hồi và phát triển bền vững cùng với các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội; chuyển dần sang nền tảng mới là văn hóa số và cần phát triển các sản phẩm văn hóa số để có thể thích ứng tốt hơn mà không bị tác động tiêu cực từ đại dịch.